Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản tám tháng năm 2012 ước đạt 18,1 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông lâm sản chính đều có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể một số mặt hàng chính như càphê xuất khẩu tám tháng ước đạt 1,26 triệu tấn, kim ngạch 2,66 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 31,9% về lượng và 26,3% về giá trị.
Hai thị trường tiêu thụ càphê lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ (chiếm tỷ trọng giá trị 12,5%) và Đức (12,4%) tăng trưởng khá cả về lượng và giá trị. Đáng chú ý nhất là thị trường Indonesia và Mexico có tăng trưởng đột biến với mức tăng lần lượt gấp khoảng 9 lần và 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Tuy nhiên, trong tám tháng vừa qua thị trường Bỉ (thị trường lớn nhất của Việt Nam trong năm 2011) có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị (chỉ bằng khoảng 45% so với cùng kỳ năm trước). Xuất khẩu càphê trong thời gian tới có thể giảm do hạn chế nguồn cung và sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào những tháng cuối năm.
Đối với mặt hàng gạo, ước xuất khẩu tám tháng đạt 5,5 triệu tấn, với giá trị 2,48 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,5% về lượng nhưng giảm 8,5% về giá trị. Thị trường xuất khẩu gạo thời gian qua có nhiều thay đổi, trong đó thị trường Trung Quốc tăng mạnh gấp 5,2 lần về lượng và 4,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước và trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Trong khi đó, nhiều thị trường lớn khác lại sụt giảm cả về lượng và giá trị như Philippines, Indonesia, và Singapore.
Mặt hàng cao su dù số lượng có tăng ở nhiều thị trường lớn nhưng do giá xuất khẩu cao su đang ở mức thấp nên giá trị không tăng mạnh so với năm trước. Ước xuất khẩu cao su tám tháng đạt 595.000 tấn, thu về 1,78 tỷ USD, tăng 34,5% về lượng và 29,1% về giá trị.
Tình hình tiêu thụ chè có khả quan hơn, Pakistan tiếp tục giữ vị trí thứ nhất với 16,5% thị phần, các thị trường lớn khác cũng đều tăng trưởng. Chè xuất khẩu tám tháng đạt 92.000 tấn, với kim ngạch 140 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,6% về lượng và 9,2% về giá trị. Giá bình quân đạt 1.493 USD/tấn, xấp xỉ bằng mức giá xuất khẩu của cùng kỳ năm trước (1.492 USD/tấn)…
Đối với xuất khẩu lâm sản chính tháng Tám ước đạt 435 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tám tháng lên 3,15 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ước kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ đạt gần 3 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh, Hoa Kỳ tăng 31,7%, Trung Quốc tăng 24,4%, và Nhật Bản tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2011. Trong những tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Với mặt hàng thủy sản, ước tám tháng xuất khẩu đạt 4 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2011. Hoa Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam , chiếm 19,8% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (17,5% thị phần) và Hàn Quốc (8,2%). Xuất khẩu mặt hàng này có thể tăng trong những tháng tới do tác động của nhu cầu tăng tại các nước nhập khẩu như châu Âu, châu Mỹ./.
Giá trị xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông lâm sản chính đều có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể một số mặt hàng chính như càphê xuất khẩu tám tháng ước đạt 1,26 triệu tấn, kim ngạch 2,66 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 31,9% về lượng và 26,3% về giá trị.
Hai thị trường tiêu thụ càphê lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ (chiếm tỷ trọng giá trị 12,5%) và Đức (12,4%) tăng trưởng khá cả về lượng và giá trị. Đáng chú ý nhất là thị trường Indonesia và Mexico có tăng trưởng đột biến với mức tăng lần lượt gấp khoảng 9 lần và 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Tuy nhiên, trong tám tháng vừa qua thị trường Bỉ (thị trường lớn nhất của Việt Nam trong năm 2011) có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị (chỉ bằng khoảng 45% so với cùng kỳ năm trước). Xuất khẩu càphê trong thời gian tới có thể giảm do hạn chế nguồn cung và sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào những tháng cuối năm.
Đối với mặt hàng gạo, ước xuất khẩu tám tháng đạt 5,5 triệu tấn, với giá trị 2,48 tỷ USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,5% về lượng nhưng giảm 8,5% về giá trị. Thị trường xuất khẩu gạo thời gian qua có nhiều thay đổi, trong đó thị trường Trung Quốc tăng mạnh gấp 5,2 lần về lượng và 4,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước và trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Trong khi đó, nhiều thị trường lớn khác lại sụt giảm cả về lượng và giá trị như Philippines, Indonesia, và Singapore.
Mặt hàng cao su dù số lượng có tăng ở nhiều thị trường lớn nhưng do giá xuất khẩu cao su đang ở mức thấp nên giá trị không tăng mạnh so với năm trước. Ước xuất khẩu cao su tám tháng đạt 595.000 tấn, thu về 1,78 tỷ USD, tăng 34,5% về lượng và 29,1% về giá trị.
Tình hình tiêu thụ chè có khả quan hơn, Pakistan tiếp tục giữ vị trí thứ nhất với 16,5% thị phần, các thị trường lớn khác cũng đều tăng trưởng. Chè xuất khẩu tám tháng đạt 92.000 tấn, với kim ngạch 140 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,6% về lượng và 9,2% về giá trị. Giá bình quân đạt 1.493 USD/tấn, xấp xỉ bằng mức giá xuất khẩu của cùng kỳ năm trước (1.492 USD/tấn)…
Đối với xuất khẩu lâm sản chính tháng Tám ước đạt 435 triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tám tháng lên 3,15 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, ước kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ đạt gần 3 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh, Hoa Kỳ tăng 31,7%, Trung Quốc tăng 24,4%, và Nhật Bản tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2011. Trong những tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Với mặt hàng thủy sản, ước tám tháng xuất khẩu đạt 4 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2011. Hoa Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam , chiếm 19,8% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (17,5% thị phần) và Hàn Quốc (8,2%). Xuất khẩu mặt hàng này có thể tăng trong những tháng tới do tác động của nhu cầu tăng tại các nước nhập khẩu như châu Âu, châu Mỹ./.
Hoàng Tùng (TTXVN)