Ngày 8/3, sau 8 ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Hà Văn Thắm (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương - OceanBank) và các đồng phạm bị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về các tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng,” “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng,” “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại các Điều 165, 179 và 281 của Bộ luật Hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định trả hồ sơ vụ án để tiến hành điều tra bổ sung thêm một số nội dung.
Trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, Hội đồng xét xử đã phân tích: Ngân hàng Đại Dương là ngân hàng cổ phần trong đó Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) là cổ đông và đối tác chiến lực với số góp vốn 20% tương đương 800 tỷ đồng.
Từ cuối năm 2009 đến cuối năm 2010, Nguyễn Xuân Sơn (nguyên Tổng Giám đốc OceanBank) đã bàn bạc và thống nhất với Hà Văn Thắm đề ra chủ trương thu thêm lãi suất vay tín dụng và chênh lệch tỷ giá dưới hình thức “thu phí” của khách hàng thông qua Công ty BSC trái quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Nguyễn Xuân Sơn đã nhận tổng số tiền hơn 69 tỷ đồng từ công ty BSC. Hành vi này có dấu hiệu của tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điều 280 - Bộ luật hình sự.
Đối với khoản tiền 246.603.989.000 đồng của Ngân hàng Đại Dương, Hội đồng xét xử cho rằng: Nguyễn Xuân Sơn với chức vụ Tổng giám đốc; Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Đại Dương và đại diện phần vốn góp của PVN tại ngân hàng, là người quản lý ngân hàng đã cùng Hà Văn Thắm bàn bạc và quyết định việc chi lãi suất ngoài hợp đồng.
Mặc dù từ ngày 11/5/2011, Nguyễn Xuân Sơn đã chuyển về làm lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí nhưng Nguyễn Xuân Sơn vẫn chỉ đạo Nguyễn Minh Thu là Tổng giám đốc Ngân hàng Đại Dương tiếp tục chăm sóc một số khách hàng là doanh nghiệp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Lợi dụng uy tín, địa vị và cơ chế, chính sách chi lãi ngoài, sự phụ thuộc của Ngân hàng Đại Dương vào nguồn tiền gửi huy động từ PVN, bị cáo đã rút số tiền trên của Ngân hàng Đại Dương.
Như vậy, hành vi của bị cáo có dấu hiệu lợi dụng chức vụ được giao, ban hành và tổ chức chỉ đạo các hoạt động trái pháp luật chiếm đoạt số tiền 246.603.989.000 đồng của Ngân hàng Đại Dương trong số đó ít nhất có 20% là phần đóng góp của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nhưng cáo trạng truy tố về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” là chưa chính xác vì vậy cần thiết phải điều tra làm rõ để xác định đúng tội danh theo quy định của pháp luật.
Liên quan đến số tiền thất thoát 800 tỷ đồng của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tòa cấp sơ thẩm xét thấy cần phải làm rõ trách nhiệm của Nguyễn Xuân Sơn và những người có trách nhiệm liên quan trong việc đầu tư, góp vốn, quản lý và sử dụng số tiền này để xử lý theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử nhận định: Từ năm 2011-2014, có hàng nghìn cá nhân và hàng trăm tổ chức kinh tế gửi tiền tại Ngân hàng Đại Dương và nhận các khoản tiền chi ngoài lãi suất. Trong số đó có nhiều khách hàng có số tiền gửi lớn là các tổ chức kinh tế thuộc doanh nghiệp có vốn Nhà nước (trong đó chủ yếu là nhóm khách hàng thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty công nghiệp Tàu Thủy Việt Nam) có dấu hiệu móc ngoặc với lãnh đạo, nhân viên Ngân hàng Đại Dương nhận các khoản tiền lãi ngoài sổ sách kế toán để nhằm hưởng lợi bất chính.
Do vậy, cần thiết phải điều tra làm rõ số tiền các tổ chức, cá nhân đã nhận để có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi phạm tội của các bị cáo và những tổ chức cá nhân có liên quan đồng thời có căn cứ giải quyết triệt để vấn đề dân sự trong vụ án để thu hồi tài sản cho Nhà nước.
Sau 8 ngày mở phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm cho rằng: Tài liệu thể hiện trong hồ sơ và lời khai tại phiên tòa của 34 bị cáo là Giám đốc Chi nhánh/Phòng giao dịch của Ngân hàng Đại Dương khẳng định là một số bị cáo không chi trực tiếp hoặc chi không hết số tiền ngoài lãi suất như cáo trạng kết luận mà do những người khác trong đơn vị trực tiếp lĩnh hội chủ trương và nhận tiền từ hội sở để chi.
Việc quy kết các bị cáo này phải chịu trách nhiệm toàn bộ số tiền như cáo trạng đã nêu là chưa chính xác. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải làm rõ số tiền này để có căn cứ xem xét về đường lối xử lý các bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, theo tài liệu hồ sơ và lời khai thì Hà Văn Thắm đã bàn bạc thống nhất cho Phạm Công Danh (thông qua Công ty Trung Dung) vay khoản tiền 500 tỷ đồng không đảm bảo điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện được khoản vay này, Phạm Công Danh đã chỉ đạo Trần Văn Bình là Tổng Giám đốc Công ty Trung Dung và đã bàn bạc với Hứa Thị Phấn đưa tài sản thế chấp không đúng để được vay khoản tiền trên và số tiền này đã chuyển để thanh toán cho khoản vay của nhóm bà Hứa Thị Phấn.
Hành vi của Phạm Công Danh, Trần Văn Bình và Hứa Thị Phấn có dấu hiệu đồng phạm với Hà Văn Thắm về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.”
Thêm vào đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã có Quyết định tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý hành vi lập khống 9 hồ sơ vay 137 tỷ đồng tại Ngân hàng Đại Dương, Phòng giao dịch Đào Duy Anh. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải làm rõ hành vi trên trong vụ này để xem xét trách nhiệm của các bị cáo cũng như những người thực hiện hành vi lập khống hồ sơ để đảm bảo sự công bằng của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa cấp sơ thẩm cũng cho rằng cần điều tra làm rõ một số nội dung khác theo như lời khai của các bị cáo và người có liên quan tại phiên tòa.
Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định trả hồ sơ vụ án hình sự đối với bị cáo Hà Văn Thắm và 47 đồng phạm khác bị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về các tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng,” “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng,” “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại các Điều 165, 179 và 281 của Bộ luật Hình sự xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội để chuyển Viện kiểm sát nhân dân Tối cao điều tra bổ sung những vấn đề nêu trên./.