Trong khuôn khổ Hội nghị Quốc hội và các Mục tiêu Phát triển bền vững, sáng 18/12, tại thành phố Đà Nẵng, Quốc hội Việt Nam phối hợp với Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức Phiên họp nhận định những thách thức đối với Việt Nam trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững và khuyến nghị, giải pháp.
Dự Phiên họp có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng; ông Nguyễn Văn Giàu, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội và ông Martin Chungong, Tổng Thư ký IPU chủ trì Phiên họp.
Phiên họp còn có sự tham dự của lãnh đạo các Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cùng các đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các tỉnh, thành phố.
Tại Phiên họp, lãnh đạo các bộ, ngành đã chia sẻ kết quả, nêu lên những thách thức; đồng thời đề ra giải pháp trong thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững thời gian tới. Các nội dung được thảo luận tại Phiên họp là: Ứng phó với biến đổi khí hậu; xóa đói giảm nghèo; bảo đảm an ninh lương thực và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, trẻ em.
Tăng cường năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân cho biết, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản biến đổi khí hậu của Việt Nam, vào cuối thế kỷ 21, nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng từ 10-12% dân số Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp và GDP có thể tổn thất khoảng 10% do biến đổi khí hậu. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều trở ngại, thách thức trong quá trình thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu (SDG 13).
Chia sẻ về những thách thức của Việt Nam trong quá trình thực hiện SDG 13, theo Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân, Việt Nam sẽ phải thực hiện các mục tiêu giảm phát thải theo cam kết, chuyển từ phương thức thực hiện tự nguyện như từ trước đến nay sang phương thức bắt buộc thực hiện bắt đầu từ năm 2021 trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cần được duy trì ở mức cao, kéo theo nhu cầu lớn về năng lượng. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, nhanh hơn so với dự báo, tác động nặng nề đến người dân và các ngành, lĩnh vực nhạy cảm với khí hậu.
[Nâng cao vai trò của Quốc hội trong thực hiện các mục tiêu bền vững]
Tình trạng khai thác, sử dụng nước, phát triển thủy điện ở các nước trên thượng nguồn sông Hồng, sông Mekong đã và đang có ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tác động này làm trầm trọng thêm các tác động của biến đổi khí hậu như gia tăng lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn...
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh, nhận thức được những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra, thời gian qua, Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã luôn quan tâm, ban hành nhiều chủ trương, chính sách và hành động quan trọng về ứng phó với biến đổi khí hậu để thực hiện SDG 13. Trong đó, Việt Nam không ngừng hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, đảm bảo chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát thải các-bon thấp. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; các Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh; Chương trình mục tiêu về biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh; Kế hoạch triển khai Thỏa thuận Paris tại Việt Nam...
Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân đề nghị, các đại biểu Quốc hội Việt Nam và của Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình, đóng góp nhiều hơn nữa vào thực hiện hiện Mục tiêu Phát triển bền vững về ứng phó với biến đổi khí hậu trên thế giới cũng như ở Việt Nam như: Xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách về biến đổi khí hậu và liên quan đến biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò lập pháp của Quốc hội trong rà soát, ban hành, bổ sung chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu đảm bảo một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, nhất quán, hài hòa với quy định quốc tế, phù hợp với điều kiện quốc gia.
Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác với IPU cũng như Quốc hội, Nghị viện các nước trong việc giám sát việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong thực thi chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là trách nhiệm, nghĩa vụ đã nêu tại Công ước Khí hậu, Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận Paris, trong đó dành ưu tiên quan tâm đến các nhóm nước đặc biệt dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu như Việt Nam. Đặc biệt, khuyến khích các quốc gia, tùy theo trách nhiệm lịch sử, tiềm lực kinh tế, công nghệ có những đóng góp tích cực vào nỗ lực toàn cầu nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò trong phân bổ nguồn lực quốc gia nhằm chủ động về nguồn lực trong thực hiện những đóng góp do Việt Nam đã cam kết theo Thỏa thuận Paris; hỗ trợ xây dựng, ban hành cơ chế huy động nguồn lực bao gồm cả nguồn tài chính từ khu vực nhà nước và doanh nghiệp ở cả cấp quốc gia, quốc tế, trong đó tập trung khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, khối doanh nghiệp.
Đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững trong cả nước
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Tấn Dũng khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Quốc hội, Chính phủ, sự nỗ lực liên tục, không ngừng của các cấp, ngành và toàn xã hội, mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam đã thu được những kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn dưới 7% (năm 2017). Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường, đời sống người dân không ngừng được cải thiện về cả sinh kế và tiếp cận dịch vụ xã hội. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế vinh danh, Liên hợp quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ.
[IPU cam kết hỗ trợ Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển bền vững]
Thứ trưởng Lê Tấn Dũng nhấn mạnh, Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 70/NQ-CP của Chính phủ đã tạo nền tảng quan trọng về nhận thức, thực tiễn thực hiện các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, an sinh xã hội đối với toàn bộ các cấp chính quyền, người dân, góp phần cải cách chính sách xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội của một nước có thu nhập trung bình. Đời sống vật chất và tinh thần của người có công, gia đình người có công, người nghèo, dân tộc thiểu số, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tiếp tục được cải thiện.
Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đã cơ bản hoàn thành và vượt so với Nghị quyết (hỗ trợ nhà ở cho người có công, tỷ lệ thất nghiệp, lao động đi làm việc theo hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân, hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, cứu trợ thiên tai lũ lụt, tỷ lệ đi học của các nhóm, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, tiếp cận thông tin cho người nghèo, vùng nghèo)...
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giảm nghèo, an sinh xã hội đang đứng trước những thách thức, đặc biệt là trong thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững về xóa bỏ đói nghèo đến năm 2030. Cụ thể, tốc độ giảm nghèo không đồng đều, chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên.
Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc nhưng nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%. Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm 52,66% tổng số hộ nghèo trong cả nước (cuối năm 2017), thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 2/5 mức thu nhập bình quân của cả nước. Chất lượng việc làm chưa đảm bảo, chuyển dịch cơ cấu lao động chậm; chất lượng phổ cập giáo dục còn chênh lệch, đặc biệt với nhóm trẻ em dân tộc thiểu số, hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, một số chính sách chưa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng dân tộc thiểu số nên hiệu quả tác động chưa cao như chính sách hỗ trợ nhà ở mức hỗ trợ còn bình quân và thấp, chính sách đầu tư nguồn nhân lực cho người dân tộc thiểu số, chính sách cử tuyển chưa gắn với sử dụng sau đào tạo...
Để phát huy những thành tựu đã đạt được trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam thời gian qua, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, theo Thứ trưởng Lê Tấn Dũng, thời gian tới, Việt Nam tiếp tục đẩy nhanh rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội tích hợp chính sách thuộc các lĩnh vực bảo đảm đồng bộ, hiệu quả, dễ theo dõi, dễ thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành mục tiêu về giảm nghèo đã đặt ra trong năm 2019. Về chính sách giảm nghèo, tập trung vào 3 nhóm chính sách: hỗ trợ phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo; hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, ưu tiên cho các dịch vụ thuộc nội dung giảm nghèo đa chiều như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin; phát triển hạ tầng vùng khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh tuyên truyền nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân về tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần tạo sự đồng thuận, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, hiệp lực của toàn xã hội trong triển khai thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo. Cùng với đó là khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, tiếp nhận, sử dụng hiệu quả chính sách, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước, cộng đồng để thoát nghèo, vươn lên khá giả; tiếp tục đẩy mạnh lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân kết hợp với dịch vụ bảo hiểm y tế ngoài công lập; đẩy mạnh chương trình nhà ở xã hội; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường...
Bảo đảm an ninh lương thực và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh khẳng định, nông nghiệp Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cho gần 95 triệu người dân, đảm bảo ổn định xã hội và sinh kế cho gần 65% dân số cả nước hiện đang sống ở khu vực nông thôn, đóng góp 15,34% GDP cho quốc gia. Sự phát triển toàn diện của nông nghiệp đã góp phần vào tăng trưởng chung của cả nước, bảo đảm an sinh xã hội cho nhân dân, ổn định xã hội và giảm nghèo. Việt Nam đã xuất khẩu nhiều loại nông lâm thủy sản với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2017 đạt 36,52 tỷ USD và năm 2018 sẽ đạt ngưỡng 40 tỷ USD. Đã có 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó 5 mặt hàng (trái cây, hạt điều, cà phê, tôm, đồ gỗ có giá trị xuất khẩu đạt trên 3 tỷ USD mỗi năm). Nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu nông sản Việt Nam đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 thế giới...
Ngoài kết quả đã đạt được, nông nghiệp Việt Nam cũng đang và sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong đảm bảo an ninh lương thực, phát triển bền vững như: Những hạn chế, yếu kém nội tại của nền sản xuất nhỏ vẫn tiếp tục là thách thức lớn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu cho khoảng 102 triệu dân vào năm 2025 và 107 triệu dân vào năm 2030. Biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, thiên tai xảy ra khó lường, mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng, gây tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, đe dọa an ninh lương thực; đòi hỏi phải có những ứng phó kịp thời, chiến lược lâu dài để hạn chế thiệt hại, thích ứng hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn lực cho ngành bao gồm: đất đai, lao động, vốn ngày càng khan hiếm và phải cạnh tranh gay gắt nguồn lực, tài nguyên với các ngành, lĩnh vực khác...
Để khắc phục những khó khăn, thách thức, theo Thứ trưởng Lê Quốc Doanh, thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Tập trung thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới theo hướng phát triển 3 trục sản phẩm; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, tập trung giải quyết các vấn đề căn cốt trong chuỗi sản xuất, nhất là công nghệ giống, quy trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ; phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành...
Thúc đẩy bình đẳng giới, tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái
Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa cho biết, những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững liên quan đến trẻ em, phụ nữ và bình đẳng giới. Trong đó, liên quan đến trẻ em,Việt Nam tiếp tục duy trì mức 20% chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục; 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cân nặng giảm còn 13,1%; phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi và tiểu học...
Về kết quả liên quan đến phụ nữ, năm 2015, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong mẹ; tỷ lệ phụ nữ biết chữ trên 96%, nữ thạc sĩ 43%, tiến sĩ 21%; tỷ lệ trẻ em gái nhập học đúng độ tuổi tương đương với tỷ lệ trẻ em trai. Ngoài ra, phụ nữ chiếm trên 48% lực lượng lao động cả nước, nữ chủ doanh nghiệp 31,6%; 72% phụ nữ tham gia lực lượng lao động, cao hơn trung bình thế giới (49%); nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,71%, tăng hơn nhiệm kỳ trước 2,62%...
Liên quan đến bình đẳng giới, năm 2016, Chính phủ đã ban hành 7 chương trình, đề án thúc đẩy bình đẳng giới, đặc biệt trong khi sửa đổi luật pháp, Việt Nam có quy định đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Song song với đó có cân nhắc, thảo luận để giảm khoảng cách tuổi hưu giữa nữ giới và nam giới...
Tuy nhiên, nhận thức về pháp luật, phát triển bền vững của người dân còn hạn chế; định kiến về vai trò phụ nữ, về giới, về trẻ em vẫn tồn tại phổ biến. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của cộng đồng dân tộc thiểu số cao gấp 3,5 lần tỷ lệ của cả nước, tỷ lệ nghèo ở trẻ em gấp 3 lần tỷ lệ nghèo chung và tỷ lệ nghèo của nhóm nữ giới cao hơn nam giới. Nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp, chủ yếu vẫn từ ngân sách Nhà nước, khó khăn đối với những tỉnh miền núi đông người dân tộc thiểu số.
Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn cao, tình trạng trẻ em béo phì ở một số tỉnh, thành phố tăng cao; tình trạng bạo lực với trẻ em khó kiểm soát (đặc biệt trong gia đình, nhà trường, môi trường trực tuyến). Công tác giám sát về tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới chưa được thực hiện thường xuyên, đầu tư nguồn lực còn hạn hẹp, phụ thuộc vào nguồn thu ngân sách; bạo lực gia đình đối với phụ nữ, trẻ em gái vẫn tồn tại. Định kiến về vai trò phụ nữ, về giới, về trẻ em vẫn tồn tại phổ biến; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới chưa hiệu quả...
Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, thời gian tới, Việt Nam sẽ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ trẻ em; có chế tài đối với những địa phương không bố trí người làm công tác trẻ em; tăng cường giám sát việc thực hiện luật trẻ em, đặc biệt giám sát xã hội; xây dựng chương trình thực hành kỷ luật tích cực cho các bậc cha mẹ nhằm giảm bạo lực thân thể và tinh thần của cha mẹ đối với con; có chính sách khuyến khích thành lập các cơ sở dịch vụ bảo vệ trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại. Bên cạnh đó, hỗ trợ nâng cao năng lực cho tổ chức Hội phụ nữ thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện, giám sát, phản biện xã hội; xây dựng chính sách khuyến khích em gái tham gia học tập các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nhà khoa học nữ tích cực nghiên cứu, phụ nữ trẻ tích cực tham gia khởi nghiệp sáng tạo.../.