Việc tăng tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn, lộ trình phù hợp

Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu không phải vấn đề mới và được bàn thảo nhiều khi sửa đổi Bộ luật Lao động 2012, trong quá trình đóng góp ý kiến cho Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Cán bộ, công chức…
Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa Cầm Thị Mẫn phát biểu ý kiến. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, chiều 12/6, các đại biểu Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).

Dự án Bộ luật sửa đổi 162 điều, bổ sung 29 điều, bãi bỏ 49 điều ở tất cả các chương, đồng thời sửa đổi 2 Điều của Luật Bảo hiểm xã hội.

Tại phiên thảo luận, vấn đề mở rộng khung thỏa thuận về giờ làm thêm tối đa lên 400 giờ/năm; đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ là những nội dung được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, phân tích cụ thể.

Tạo điều kiện cho lao động nữ được bồi dưỡng, bổ nhiệm

Liên quan đến vấn đề tăng tuổi nghỉ hưu, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, các căn cứ, phương án Chính phủ đưa ra vừa bảo đảm quyền, đồng thời thể hiện trách nhiệm của người lao động, có tính đến các điều kiện, tính chất lao động và các yếu tố khác.

Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu không phải vấn đề mới và được bàn thảo nhiều khi sửa đổi Bộ luật Lao động 2012, trong quá trình đóng góp ý kiến cho Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Cán bộ, công chức…

Nhấn mạnh việc tăng tuổi nghỉ hưu là cần thiết, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà (Bắc Giang) nêu ra những căn cứ, cơ sở cho đề xuất này.

Theo đại biểu, tuổi nghỉ hưu hiện tại đã được quy định cách đây gần 60 năm, đến nay các điều kiện về kinh tế-xã hội, điều kiện lao động, sức khỏe, tuổi thọ bình quân, yêu cầu về phát triển đất nước đều thay đổi rất nhiều... Vì vậy, việc tăng tuổi nghỉ hưu đã chín muồi.

Bên cạnh đó, cách đây 15 năm, lực lượng lao động tăng khoảng 1,2 triệu người/năm nhưng đến nay chỉ còn khoảng 400.000 người/năm và dự báo 15 năm tới Việt Nam chỉ tăng khoảng 200.000 lao động/năm; như vậy, trong tương lai thiếu lao động.

Đặc biệt, đối với nữ, việc tăng tuổi nghỉ hưu đồng nghĩa với việc tăng số năm đóng bảo hiểm xã hội, chắc chắn lương hưu của lao động nữ sẽ được cải thiện tốt hơn.

[Tăng tuổi nghỉ hưu có lộ trình, tránh gây sốc thị trường lao động]

Thực tế, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, lương hưu trung bình của lao động nữ chỉ chiếm 84% so với lao động nam. “Tăng tuổi nghỉ hưu sẽ tác động tích cực đến việc phát triển sự nghiệp cũng như sự tiến bộ của phụ nữ; do đó tăng cơ hội trong đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm, bồi dưỡng đối tượng này. Hiện nay, các quy định về độ tuổi tham gia đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bổ nhiệm phụ nữ đều sớm hơn nam giới 5 năm. Trong khi đó, phụ nữ mất từ 5-8 năm sinh con, nuôi con nhỏ nên sau 35 tuổi phụ nữ mới có điều kiện tập trung cho công việc, phát triển sự nghiệp. Thời gian qua có nhiều ví dụ cho thấy phụ nữ chịu thiệt thòi trong thăng tiến do giới hạn quy định độ tuổi nghỉ hưu,” đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà phân tích.

Đại biểu Trương Phi Hùng (Long An) nhận định, việc xem xét tăng tuổi nghỉ hưu phải quán triệt đầy đủ tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài hạn, lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cũng như tình trạng thất nghiệp, không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động, bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu dân số, bình đẳng giới, cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, xu hướng già hóa dân số, tính chất loại hình lao động và giữa các ngành nghề lĩnh vực…

Theo đại biểu, từ năm 2021 nên thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về thời gian theo quy định tuổi nghỉ hưu. Đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung.

Tuy nhiên, đại biểu Trương Phi Hùng cũng cho rằng, cần cân nhắc, xem xét tuổi nghỉ hưu của các đối tượng là công nhân lao động trực tiếp trong khu vực sản xuất dịch vụ và một số ngành nghề đặc thù. Đối với những đối tượng này có thể xem xét chưa tăng tuổi nghỉ hưu hoặc có lộ trình tăng chậm hơn.

Ngoài ra, việc xét tăng tuổi nghỉ hưu cần có lộ trình phù hợp để tránh gây sốc về tình trạng thất nghiệp cũng như không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động.

Nhấn mạnh người lao động hiện nay đang làm việc trong điều kiện rất khó khăn so với các nước trong khu vực, mức sinh hoạt bảo đảm cho cuộc sống còn hạn chế, đại biểu Trương Phi Hùng cho rằng, nếu tăng tuổi nghỉ hưu thì nên chia ra theo nhóm lao động. Theo đó, gồm nhóm lao động làm việc trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và nhóm lao động làm việc trong doanh nghiệp ngoài công lập, trong đó giữ nguyên như hiện hành về tuổi nghỉ hưu đối với nhóm lao động ngoài nhà nước.

“Hằng năm, nước ta có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp ra trường, có nhiều lao động trẻ, khỏe, đủ năng lực và là nguồn nhân lực có chất lượng; nếu áp dụng ngay quy định tăng tuổi nghỉ hưu rõ ràng có một phần cản trở lực lượng lao động trẻ. Tăng tuổi nghỉ hưu cần được tính toán thật kỹ,” đại biểu nêu quan điểm.

Giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là xu hướng tất yếu và cũng là yêu cầu thực sự cần thiết của Việt Nam hiện nay.

Theo Bộ trưởng, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là vấn đề không hề dễ dàng, hầu như các nước đều gặp phải khó khăn. Theo đó, các nước đều quyết định sớm khi còn thặng dư lao động; tiến hành lộ trình tăng tuổi chậm.

Thực tế, người dân, người lao động không đồng tình, nhưng vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lâu dài thì các nước đều quyết định tăng tuổi hưu. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phải phân loại đối tượng theo các nhóm. "Đây là kinh nghiệm các nước đã đặt ra và chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu," Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng cho biết thêm, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu sẽ phân làm ba nhóm: Nhóm trong điều kiện lao động bình thường; nhóm lao động ngành nghề, lĩnh vực nặng nhọc, độc hại, suy giảm, vùng sâu, vùng xa và nhóm nghỉ hưu muộn hơn.

“Từ năm 2014, theo đánh giá của quốc tế, Việt Nam đã chuyển từ giai đoạn dân số vàng sang giai đoạn đang già. Hiện, chúng ta chỉ tăng thêm khoảng 400.000 lao động hàng năm nên thời gian tới chắc chắn thiếu lao động," Bộ trưởng cho biết.

Nhiều ý kiến khác nhau về mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ

Đối với vấn đề mở rộng khung thỏa thuận về giờ làm thêm tối đa, nhiều ý kiến tán thành với đề xuất của Chính phủ mở rộng khung thỏa thuận này lên 400 giờ/năm.

Đại biểu Trương Thị Bích Hạnh (Bình Dương) khẳng định, nhu cầu làm thêm giờ là có thực từ hai phía, từ phía lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp thâm dụng lao động như may mặc, giày da, chế biến gỗ và một số ngành khác. Đây là các doanh nghiệp sản xuất, gia công hàng xuất khẩu nên phụ thuộc đơn hàng, cần sự linh hoạt trong bố trí sản xuất và có sự thiếu hụt tạm thời về lao động.

Ở khu vực này, người lao động có mức tiền lương thấp do là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chủ yếu doanh nghiệp tự đào tạo trong quá trình làm việc. Tiền lương trả cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng không đáng kể, trong khi đó, mức lương tối thiểu vùng cũng chưa thật sự đáp ứng nhu cầu sống của người lao động và gia đình họ.

Tiền lương không đủ sống là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng người lao động muốn làm và phải làm thêm giờ để đảm bảo cuộc sống đồng thời dành một phần tích lũy khi còn trẻ.

Đại biểu Trương Thị Bích Hạnh nhấn mạnh, việc mở rộng khung thỏa thuận làm thêm giờ cần được đặt trong mối tương quan thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này.

Ở góc nhìn khác, một số đại biểu đề nghị không tăng giờ làm thêm vì không phù hợp với xu hướng tiến bộ “tăng lương, giảm giờ làm” và các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, có thể dẫn đến các hệ lụy xã hội, gây bất lợi cho người lao động trong bối cảnh các chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đang chững lại, hệ số bất bình đẳng thu nhập (GINI) có xu hướng tăng.

Giải trình về nội dung này, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định, vấn đề làm thêm giờ là nhu cầu có thực của doanh nghiệp và một bộ phận người lao động.

Đề xuất của Chính phủ tăng từ 300 giờ lên 400 giờ/năm chỉ áp dụng cho rất ít ngành nghề và ở những thời điểm nhất định, không áp dụng tăng giờ làm thêm khu vực công. Bộ trưởng khẳng định, cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu ý kiến của một số đại biểu Quốc hội liên quan đến thỏa thuận, trả lương lũy tiến cho người lao động… nhằm bảo đảm quyền của người lao động và doanh nghiệp.

Theo chương trình, trong phiên làm việc chiều 12/6, Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục