Việc UNESCO ghi danh Nghệ thuật làm gốm của người Chăm vào Danh sách Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp sẽ thúc đẩy các biện pháp thiết thực và hiệu quả nhằm bảo tồn, vực dậy sức sống của di sản, tạo thêm nguồn lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản này, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa theo hướng bền vững, bao trùm ở các địa phương, cộng đồng dân cư.
Ghi danh nghề thủ công đầu tiên của Việt Nam
Chiều 29/11, hồ sơ "Nghệ thuật làm gốm của người Chăm" đã được ghi vào Danh sách Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO).
Quyết định này được thông qua trong khuôn khổ kỳ họp lần thứ 17 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, diễn ra từ 28/11 đến 3/12 tại thủ đô Rabat của Maroc.
Phát biểu tại lễ công bố, bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa khẳng định chính phủ và đặc biệt là cộng đồng người Chăm ở Việt Nam cam kết sẽ làm hết sức mình để bảo vệ di sản quý giá này.
Đại sứ Lê Thị Hồng Vân, Trưởng đại diện phái đoàn Việt Nam bên cạnh UNESCO cho biết "Nghệ thuật làm gốm của người Chăm" là di sản văn hóa phi vật thể thứ 15 của Việt Nam được UNESCO ghi danh.
Đại sứ nhấn mạnh: "Sự ghi nhận này một lần nữa khẳng định sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị văn hóa của người dân hai tỉnh nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung, qua đó góp phần không nhỏ giới thiệu đến bạn bè quốc tế về những di sản văn hóa đặc sắc của vùng đất duyên hải Nam Trung Bộ. Điều này cũng thể hiện sự đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam cho mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị di sản mà UNESCO đang thúc đẩy, nhất là trên cương vị thành viên Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003 giai đoạn 2022-2026."
[Nghệ thuật làm gốm của người Chăm chính thức được UNESCO ghi danh]
Với sự ghi nhận này của UNESCO, đồng bào dân tộc và cộng đồng tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận sẽ nhận thức đầy đủ hơn về giá trị của nghề làm Gốm truyền thống của người Chăm trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam.
Việc ghi danh cũng sẽ thúc đẩy các biện pháp thiết thực và hiệu quả nhằm bảo tồn, vực dậy sức sống của di sản, tạo thêm nguồn lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản này, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa theo hướng bền vững, bao trùm ở các địa phương, cộng đồng dân cư.
Bày tỏ niềm vui khi được chứng kiến "Nghệ thuật làm gốm của người Chăm" được UNESCO ghi vào Danh sách Di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp, ông Nguyễn Long Biên, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận, nói: "Đây không chỉ là vinh dự mà còn là trách nhiệm của lãnh đạo và người dân địa phương trong việc gìn giữ bảo tồn một di sản được thế giới công nhận. Do đó trong thời gian tới, tỉnh cần phải phát huy những giá trị đích thực của di dản, đồng thời gắn kết di sản với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương để những giá trị này đem lại lợi ích chung cho xã hội cũng như cộng đồng, đặc biệt là đối với đồng bào Chăm ở Ninh Thuận."
Gốm Chăm - Sản phẩm thủ công độc đáo
Nghề làm gốm truyền thống của người Chăm có một vai trò to lớn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Sản phẩm gốm không thể thiếu trong đời sống, sinh hoạt hằng ngày của mỗi gia đình và trong văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm.
Gốm Chăm hiện nay còn hiện diện chủ yếu ở hai làng là Ligok (Trì Đức, tỉnh Bình Thuận) và Hamu Crok (Bàu Trúc, tỉnh Ninh Thuận). Trong số đó, tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 12 đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất thô sơ từ ngàn xưa.
Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng. Chính nhờ vậy, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển, nhưng gốm truyền thống của người Chăm vẫn tồn tại với thời gian, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm.
Hiện nay người Chăm làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống được các gia đình người Chăm nơi đây duy trì qua nhiều đời.
Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm bao gồm nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn kết nối với nhau. Đầu tiên là việc chọn đất và lấy đất. Việc xử lý đất trước khi làm gốm quyết định đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung.
Sau khi lấy đất về, người ta đập nhỏ thành từng mảnh để lọc bỏ phần đất tạp, chỉ lấy đất sét vàng rồi đem ủ để giữ độ mềm. Lấy một khối đất vừa đủ, người phụ nữ Chăm uyển chuyển nhào nặn cho đất dẻo ra, sau đó đặt lên một chiếc chum to để tạo khối.
Sản phẩm gốm được chế tác hoàn toàn bằng thủ công “Nắn bằng tay, không bàn xoay.” Nghệ nhân tự đi giật lùi quanh bàn chế tác tạo hình gốm. Do đi quanh chế tác nên cách vuốt gốm của nghệ nhân Chăm là vuốt thẳng, khác với cách vuốt ngang ở các làng gốm có sử dụng bàn xoay.
Với sự khéo léo và kỹ thuật điêu luyện, chỉ cần vài vòng, người thợ đã tạo xong khối cho sản phẩm. Hình dáng sản phẩm sẽ được quyết định bởi việc di chuyển lùi xung quanh của người thợ.
Sau đó, họ dùng “vòng quơ” chải quanh thân gốm rồi lấy vải cuộn thấm nước quấn vào tay, chà cho mặt ngoài của gốm bóng láng. Tiếp đó là công đoạn trang trí hoa văn.
Những bàn tay thoăn thoắt khắc lên thân gốm những hoa văn mang chủ đề sông nước, các loài thực vật hay hình ảnh thiên nhiên, đất trời và các vị thần trong tín ngưỡng tâm linh của người Chăm…
Sau khi tạo hình, người ta để sản phẩm trong bóng mát đủ 24 tiếng đồng hồ rồi chà mỏng và tiếp tục phơi thêm 7 ngày cho khô hoàn toàn, sau đó mới đem nung. Nhờ vậy, sản phẩm sẽ “chín” kỹ và không bị nứt.
Sản phẩm sau khi chế tác được nung lộ thiên. Điểm khác biệt của gốm Chăm là các sản phẩm được nung lộ thiên hoàn toàn. Tùy theo điều kiện nắng gió cộng với quá trình và kỹ thuật phun màu (chiết xuất từ dầu hạt điều, cây dông…) sẽ cho ra các sản phẩm có màu sắc đặc trưng như vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, vệt nâu lạ và đẹp mắt, thể hiện rõ nét văn hóa Chăm cổ xưa.
Chính bởi được làm hoàn toàn theo phương pháp thủ công như vậy nên những sản phẩm gốm Chăm không chiếc nào giống chiếc nào. Mỗi sản phẩm đều thể hiện phong cách, tay nghề, sự khéo léo và cả tình cảm, tâm trạng của người thợ trong quá trình chế tác sản phẩm.”
Thời gian để nung chín toàn bộ sản phẩm gốm nhanh hay chậm tùy thuộc vào số lượng gốm nhiều hay ít. Với một số sản phẩm mỹ nghệ, nghệ nhân còn sử dụng một số cách tạo màu tự nhiên như rưới, phun nước hạt điều, nước cây thị - trong khi loại tượng nghệ thuật lại có thể được om trấu hoặc củi để tạo những vết loang đen do khói lửa.
Đặc biệt, một đặc trưng quan trọng của gốm Chăm là thế giới tâm linh tín ngưỡng, phong tục, văn hóa Chăm thể hiện qua gốm. Ở Bàu Trúc, chúng ta dễ dàng bắt gặp dáng hình và điệu múa mềm mại của nàng Apsara, vũ điệu thần Shiva qua tượng hoặc phù điêu, các kiểu sinh thực khí linga-yoni, cặp bình đực-cái, điệu múa Chăm, nghệ nhân chơi kèn saranai… cùng những tác phẩm mô phỏng đời sống văn hóa tâm linh khác.
Nỗ lực bảo tồn gốm Chăm
Bàu Trúc (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) được đánh giá là một trong những làng gốm cổ nhất Đông Nam Á. Xuất hiện cách đây khoảng 8 thế kỷ, gốm Bàu Trúc đã tồn tại, phát triển và gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người Chăm sinh sống tại Ninh Thuận và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.
Suốt nhiều thế kỷ qua, người Chăm ở làng Bàu Trúc vẫn giữ gìn nguyên vẹn nghề truyền thống của cha ông với những kỹ năng, bí quyết nghề được trao truyền từ thế hệ này sang thế khác. Vì thế, nơi đây được các nhà nghiên cứu, du khách trong và ngoài nước ưu ái gọi là “bảo tàng sống” của gốm Chăm.
Tuy nhiên, nghề gốm Chăm Bàu Trúc cũng đang đứng trước nguy cơ mai một, bởi tác động của nền sản xuất công nghiệp, các sản phẩm gia dụng (đồ đựng, đồ nấu…) hiện đại với vật liệu mới dần thay thế sản phẩm gốm truyền thống.
Để cạnh tranh tồn tại, khi người tiêu dùng có yêu cầu thẩm mỹ cao, làng gốm Bàu Trúc đã phải tìm hướng đổi mới và phát triển. Làng nghề gốm Chăm này đã tiên phong tìm hướng đổi mới dòng sản phẩm gốm dân dụng, kết hợp phát triển dòng gốm trang trí nhằm tạo sức hút từ thị trường.
Với suy nghĩ phát triển dựa trên nền tảng văn hóa Chăm để giữ nét đặc sắc riêng đồng thời không bó hẹp trong đó, các nghệ nhân gốm Chăm đã phát triển các sản phẩm mới kết hợp các yếu tố văn hóa phương Tây, văn hóa Việt vào trong sản phẩm gốm Bàu Trúc.
Muốn phát triển các sản phẩm gốm không thể bó hẹp mãi trong văn hóa Chăm. Tuy nhiên, việc phát triển phải dựa trên nền tảng văn hóa Chăm để giữ được dáng vẻ và nét đặc sắc riêng. Có như vậy, gốm Chăm Bàu Trúc mới có chỗ đứng vững trên thị trường.
Cùng với việc thay đổi mẫu mã, cải tiến sản phẩm gốm dân dụng, làm gốm Bàu Trúc cũng đẩy mạnh phát triển dòng gốm trang trí, gốm mỹ nghệ, gốm lưu niệm có hàm lượng thẩm mỹ, cho giá trị kinh tế cao như đèn gốm trang trí, đèn ngủ, lọ hoa, bình nước, bình trà, lục bình, tháp nước, các biểu tượng văn hóa phương Tây, văn hóa phương Đông, văn hóa Chăm.
Làng gốm Bàu Trúc hiện có 975 hộ; trong đó, có 300 hộ làm gốm. Nghề làm gốm đang ngày càng phát triển, trong làng có 1 hợp tác xã, 2 công ty và 60 cơ sở sản xuất gốm hoạt động thường xuyên, tạo ra nhiều dòng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu sử dụng gốm trang trí nhà vườn của các gia đình, khách sạn, resort trên toàn quốc.
Không chỉ đổi mới sản xuất, làng gốm Chăm Bàu Trúc còn tìm ra một hướng đi mới nhằm quảng bá sản phẩm - phát triển du lịch cộng đồng.
Trong khuôn khổ dự án Phát triển du lịch cộng đồng dựa vào di sản tại làng Bàu Trúc, do Hội đồng Anh phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Ninh Thuận và địa phương phối hợp triển khai, người dân trong làng đã được hướng dẫn, đào tạo đón tiếp khách du lịch, tiếp thị sản phẩm, dạy khách cách làm bánh và các món ăn truyền thống của người Chăm. Nhờ vậy, thu nhập của người dân có sự cải thiện đáng kể bên cạnh nguồn thu từ các sản phẩm gốm.
Du lịch cộng đồng không chỉ mang lại sinh kế cho người dân mà còn góp phần bảo vệ môi trường, cảnh quan và những giá trị văn hóa bản địa cho làng Bàu Trúc, cũng như bảo vệ nghề truyền thống của đồng bào Chăm ở nơi đây khỏi nguy cơ mai một.
Trải qua nhiều thăng trầm, nghề gốm ở Bàu Trúc tưởng có lúc bị mai một nhưng nay đã khởi sắc với nhiều tín hiệu đáng mừng. Hiện nay, làng gốm Bàu Trúc đang là một trong những điểm đến tham quan nổi tiếng của Ninh Thuận./.