Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 21, chiều 15/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia
Tờ trình của Chính phủ đã nêu rõ sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Theo đó, qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước...
Do đó, cần thiết phải cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Trong đó, cần nghiên cứu, ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành.
Điều này nhằm mục đích hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, đảm bảo minh bạch để khai thác tối đa nguồn tài nguyên, phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả, đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm tra giám sát, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, kiệt quệ, ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương...
[Cần hoàn thiện hành lang pháp lý để bảo đảm an ninh tài nguyên nước]
Dự thảo Luật gồm 88 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 10 điều; sửa đổi, bổ sung 62 điều; bổ sung mới 16 điều) và bãi bỏ 8 điều. Cụ thể, về quy định chung, sửa đổi, bổ sung về phạm vi điều chỉnh, trong đó sửa đổi, bổ sung phát triển tài nguyên nước (Điều 1); bổ sung quy định về áp dụng pháp luật (Điều 4); sửa đổi, bổ sung quy định về các loại hình cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước; trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, vận hành...
Về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước, gồm 13 điều (từ Điều 13 đến Điều 25), dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng quy định rõ các hoạt động thuộc đối tượng điều tra định kỳ thường xuyên và không định kỳ; trách nhiệm tổ chức, cá nhân phải cập nhật kết quả thực hiện vào hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu; trách nhiệm phê duyệt, công bố dòng chảy tối thiểu và khả năng tiếp nhận nước thải vào nguồn nước theo hướng công bố ở những khu vực, nguồn nước quan trọng cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội...
Xác định rõ phạm vi điều tra cơ bản tài nguyên nước
Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, Thường trực Ủy ban tán thành sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng tránh và giảm thiểu rủi ro thiên tai...
Tuy nhiên, dự thảo Luật cần tập trung làm rõ hơn quan điểm về chủ động tích nước, trữ nước; điều tiết, bảo đảm đủ nước cấp cho sinh hoạt và sản xuất; kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nguồn nước, bảo đảm thống nhất, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương; sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp; cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều nước; thực hiện các giải pháp tiết kiệm nước, tái sử dụng nước; ứng dụng khoa học công nghệ trong quản trị, phát triển tài nguyên nước.
Về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước, Thường trực Ủy ban tán thành sự cần thiết quy định nội dung này trong dự thảo Luật, nhưng cần xác định rõ hơn phạm vi điều tra cơ bản tài nguyên nước. Nội dung quy định về quy hoạch cần rà soát để tránh trùng lặp với các ngành khác và phù hợp với trật tự các loại quy hoạch trong Luật Quy hoạch; có cơ chế để các tổ chức, cá nhân cập nhật thông tin, kết quả điều tra vào hệ thống thông tin tài nguyên nước sau khi được thẩm định, thẩm tra theo quy định; quy định điều kiện để các tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn ngân sách nhà nước thực hiện dự án điều tra cơ bản tài nguyên nước, tránh lãng phí ngân sách và tài sản công.
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất với việc bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài chính nhằm làm rõ giá trị kinh tế của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu bổ sung công cụ kinh tế, cơ chế tài chính liên quan đến phân bổ nguồn thu cho các đối tượng thụ hưởng từ hoạt động bảo vệ nguồn sinh thủy cho phù hợp; cần đối chiếu, rà soát quy định giá tính thuế tài nguyên nước theo quy định của pháp luật về thuế, giá và mục đích sử dụng, điều kiện khai thác, đặc điểm kinh tế-xã hội của khu vực, lưu vực sông.
Bổ sung khái niệm về phục hồi, bảo vệ tài nguyên nước
Qua thảo luận, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá dự thảo Luật đã được chuẩn bị nghiêm túc, công phu. Tán thành việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước, các đại biểu cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, thể chế hóa đầy đủ Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho rằng, thực tế, hệ thống pháp luật về tài nguyên nước vẫn còn bất cập, chồng chéo, chưa rõ cơ chế phối hợp, phạm vi trách nhiệm của các cơ quan liên quan, gây khó khăn cho quá trình thực thi, triển khai, áp dụng. Do đó, dự thảo Luật cần tập trung tháo gỡ các khó khăn này.
Liên quan đến phạm vi điều chỉnh, ông Tùng lưu ý, cần phân định rõ phạm vi điều chỉnh với các luật khác có liên quan như Luật Khoáng sản, Luật Biển Việt Nam để đảm bảo không chồng chéo; đồng thời cũng cần rà soát, nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định pháp luật liên quan, đặc biệt là những vấn đề có cách tiếp cận đa chiều, để đưa ra quy định nhất quán, tránh mâu thuẫn.
Cho ý kiến về việc bảo vệ các công trình hồ đập có trữ lượng lớn, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới lo ngại, nếu các đập này bị vỡ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và sản xuất của người dân. Do đó, ông Lê Tấn Tới đề nghị, việc bảo vệ hồ đập ngoài trách nhiệm chung thì còn có trách nhiệm của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an.
Về tích trữ nước ngọt để phục vụ sản xuất, kinh doanh ở vùng xâm nhập mặn, vùng núi, vùng cao, Chủ nhiệm Lê Tấn Tới nêu dẫn chứng, ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nước bị xâm nhập mặn ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và cuộc sống của người dân. Vì vậy, cần có hồ chứa nước ngọt để phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt của người dân. Hay khi bị hạn hán, cần hồ chứa nước nhỏ để đảm bảo phòng cháy, chữa cháy và sinh quyển. Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị nghiên cứu về các hồ tích lũy nước để phục vụ cho sản xuất và đảm bảo môi trường sinh thái.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, thực trạng nguồn nước đang bị suy thoái rất nặng nề. Do đó, tại chương 3 dự thảo Luật quy định về Bảo vệ tài nguyên nước, cần bổ sung thêm khái niệm về phục hồi và bảo vệ tài nguyên nước, hoặc bảo vệ phát triển tài nguyên nước.
Chủ tịch Quốc hội đề nghị nghiên cứu, rà soát để bổ sung chức năng rất quan trọng của nguồn nước là chức năng phòng, chống thiên tai như thoát lũ, chứa lũ; điều hòa, chống úng, ngập; hành lang bảo vệ nguồn nước; bổ sung khái niệm hành lang thoát lũ...
Chủ tịch Quốc hội đề nghị tiếp tục đối chiếu, rà soát quy định về giá tính thuế tài nguyên nước theo quy định pháp luật về thuế, giá. Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ, giá nước không chỉ là vấn đề mục đích sử dụng, điều kiện khai thác và đặc điểm kinh tế - xã hội, mà còn theo mức độ khan hiếm tài nguyên nước ở khu vực, cần nghiên cứu có tỷ lệ thuế suất khác nhau, nhất là những nơi khan hiếm tài nguyên nước phải đánh thuế cao./.