Nhận lời mời của Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra, Tổng Bí thư Ban Chấphành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Vươngquốc Thái Lan, từ ngày 25-27/6/2013. Nhân chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bốchung Việt Nam-Thái Lan.
TTXVN trân trọng giới thiệu toàn văn Tuyên bố chung:
1. Nhận lời mời của Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra, Tổng Bí thư Ban Chấphành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức Vươngquốc Thái Lan, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 6 năm 2013.
Trong thời gian ở thăm Thái Lan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có cuộc gặpsong phương với Thủ tướng Yingluck Shinawatra; hội kiến với Chủ tịch Quốc hộikiêm Chủ tịch Hạ viện Somsak Kiatsuranont; Chủ tịch Thượng viện NikomWairatpanij ; lãnh đạo các đảng chính trị Thái Lan; doanh nghiệp Thái Lan; Hộihữu nghị Thái Lan-Việt Nam; nhận bằng Tiến sỹ danh dự trường Đại học Thammasat;gặp cộng đồng Việt kiều; thăm một số cơ sở kinh tế và văn hóa tại thủ đô Bangkokvà tỉnh Nakhon Phanom.
2. Tại cuộc hội đàm trong bầu không khí chân thành và tin cậy, Thủ tướngYingluck Shinawatra đánh giá cao những thành tựu Việt Nam đạt được theo hướngcông nghiệp hóa và hiện đại hóa, chúc mừng Việt Nam ngày càng nâng cao vị thếtrên trường quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao những thànhtựu kinh tế-xã hội của Thái Lan, bày tỏ ủng hộ kế hoạch của Thái Lan pháttriển toàn diện và đóng vai trò tích cực trong khu vực và trên thế giới.
3. Hai nhà lãnh đạo trao đổi quan điểm về tình hình hiện nay và triển vọngcủa mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan trên mọi lĩnh vực, bao gồm chính trị, anninh-quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư và cam kết mở rộng hợp tác trên mọilĩnh vực nhằm củng cố mối quan hệ và tình hữu nghị giữa hai nước và thúc đẩy hòabình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới.
4. Hai nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy giao lưu, hợp tác chặt chẽ hơn giữa cácđảng chính trị của Thái Lan và Việt Nam, bao gồm trao đổi thông tin, chia sẻkinh nghiệm lãnh đạo, quản lý; tăng cường đối thoại chính trị ở các cấp, đặcbiệt ở cấp cao nhất, tiếp tục đẩy mạnh giao lưu nhân dân; trong đó có giao lưugiữa thanh, thiếu niên và thế hệ trẻ hai nước.
5. Trên cơ sở mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Thái Lan tiếp tục pháttriển, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1976, và đánh dấu ýnghĩa lịch sử của chuyến thăm này, hai nhà lãnh đạo đã quyết định đưa quan hệhai nước lên Đối tác Chiến lược nhằm mở ra triển vọng mới cho mối quan hệ hợptác gần gũi hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và pháttriển trong khu vực, cũng như góp phần vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN đoànkết, vững mạnh.
Với mục đích đó, và trên cơ sở các thỏa thuận, khuôn khổ và cơ chế hợp táchiện có, hai nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy quan hệ Đối tác Chiến lược trong cáclĩnh vực sau:
(i) Về quan hệ chính trị: Tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau thông quatrao đổi các chuyến thăm cấp cao và đối thoại chính trị chiến lược; duy trì mốiquan hệ chính trị tốt đẹp tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển và tăng cườnghợp tác trong các lĩnh vực khác.
(ii) Về hợp tác quốc phòng và an ninh: Tăng cường, mở rộng và nâng cao hiệuquả hợp tác quốc phòng và an ninh; tăng cường hợp tác để xử lý các thách thức anninh truyền thống và phi truyền thống; đẩy mạnh hợp tác về lãnh sự; và tái khẳngđịnh cam kết không cho phép bất kỳ một cá nhân hoặc tổ chức nào sử dụng lãnh thổcủa nước mình thực hiện các hoạt động chống lại nước kia.
(iii) Về hợp tác kinh tế: Tăng cường hợp tác về đầu tư, thương mại, nănglượng, viễn thông, công nghệ thông tin và giao thông vận tải; phấn đấu tăng kimngạch thương mại hai nước hàng năm đạt trên 15 tỷ USD vào năm 2020; tăng cườngkết nối giao thông giữa hai nước và với các nước trong khu vực thông qua cácmạng lưới giao thông đường bộ hiện có và hành lang kinh tế, đặc biệt là Hànhlang kinh tế Đông-Tây, tuyến đường số 8 và tuyến đường số 12.
(iv) Về hợp tác xã hội, văn hóa, giao lưu nhân dân và các lĩnh vực hai bêncùng quan tâm: thành lập các Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Thái Lan tại mộtsố trường đại học của mỗi nước; tăng cường hợp tác về lao động; nâng cao vai tròcủa các tổ chức hữu nghị như cộng đồng người Thái Lan tại Việt Nam và người ViệtNam tại Thái Lan cũng như thúc đẩy hợp tác ở các cấp địa phương; và tăng cườnggiao lưu nhân dân thông qua Hội Hữu nghị Việt Nam-Thái Lan và Thái Lan-Việt Nam.
(v) Về hợp tác khu vực và quốc tế: Tăng cường các nỗ lực chung nhằm xây dựngCộng đồng ASEAN gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và trách nhiệm xã hội,phát huy vai trò trung tâm Hiệp hội trong cấu trúc khu vực, vì hòa bình, hợp tácvà phát triển ở khu vực; phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực và tăngcường phát triển kinh tế vùng và tiểu vùng, bao gồm cả Diễn đàn Mekong với cácđối tác phát triển, thu hẹp khoảng cách phát triển trong khu vực Đông Nam Á;phối hợp ủng hộ các ứng cử viên của nhau trong Liên hợp quốc, các tổ chức quốctế và khu vực.
Để triển khai mối quan hệ Đối tác Chiến lược, hai nhà lãnh đạo nhất trí giaocho hai Bộ Ngoại giao phối hợp cùng các bộ/ngành hữu quan xây dựng Kế hoạch Hànhđộng về các lĩnh vực đã đề cập trên để thảo luận, bàn bạc tại kỳ họp chung củaỦy ban Hỗn hợp về Hợp tác song phương, do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước đồng chủtrì.
6. Hai nhà lãnh đạo cam kết làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nướcđể xây dựng một Cộng đồng ASEAN thống nhất, gắn kết và vững mạnh và tăng cườngcác khuôn khổ của ASEAN như ASEAN+1, ASEAN+3, Diễn đàn Khu vực và các cuộc họpcấp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN. Hai nhà lãnh đạo cũng nhất trí thúc đẩy tham vấnvà hợp tác tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế như ACMECS, Tiểu vùngsông Mekong, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM…, cùngnhau giữ gìn và thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và phồn vinh ởkhu vực và trên thế giới.
7. Hai nhà lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết phối hợp chặt chẽ trong việc duytrì hòa bình và ổn định ở Biển Đông; tăng cường tin cậy và lòng tin lẫn nhauthông qua hợp tác hàng hải, thúc đẩy an ninh hàng hải bao gồm tự do hàng hải vàquá cảnh; thực hiện kiềm chế không sử dụng vũ lực; giải quyết tranh chấp thôngqua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liênhợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 và DOC và tiến tới sớm thông qua COC.
8. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường hợp tác trong việc thựchiện các biện pháp bảo vệ sử dụng nguồn nước chung vì sự phát triển bền vững; vàtiến hành nghiên cứu toàn diện về việc sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.
9. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Thủ tướng YingluckShinawatra, Chính phủ Hoàng gia, nhân dân Thái Lan về sự đón tiếp trọng thị,nhiệt tình và hữu nghị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Thủ tướngYingluck Shinawatra sớm sang thăm lại Việt Nam vào thời gian thích hợp cho cảđôi bên, Thủ tướng Yingluck Shinawatra bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời.Thời gian cụ thể của chuyến thăm sẽ được thu xếp qua đường ngoại giao.
Bangkok, ngày 26 tháng 6 năm 2013./.
TTXVN trân trọng giới thiệu toàn văn Tuyên bố chung:
1. Nhận lời mời của Thủ tướng Thái Lan Yingluck Shinawatra, Tổng Bí thư Ban Chấphành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức Vươngquốc Thái Lan, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 6 năm 2013.
Trong thời gian ở thăm Thái Lan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có cuộc gặpsong phương với Thủ tướng Yingluck Shinawatra; hội kiến với Chủ tịch Quốc hộikiêm Chủ tịch Hạ viện Somsak Kiatsuranont; Chủ tịch Thượng viện NikomWairatpanij ; lãnh đạo các đảng chính trị Thái Lan; doanh nghiệp Thái Lan; Hộihữu nghị Thái Lan-Việt Nam; nhận bằng Tiến sỹ danh dự trường Đại học Thammasat;gặp cộng đồng Việt kiều; thăm một số cơ sở kinh tế và văn hóa tại thủ đô Bangkokvà tỉnh Nakhon Phanom.
2. Tại cuộc hội đàm trong bầu không khí chân thành và tin cậy, Thủ tướngYingluck Shinawatra đánh giá cao những thành tựu Việt Nam đạt được theo hướngcông nghiệp hóa và hiện đại hóa, chúc mừng Việt Nam ngày càng nâng cao vị thếtrên trường quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao những thànhtựu kinh tế-xã hội của Thái Lan, bày tỏ ủng hộ kế hoạch của Thái Lan pháttriển toàn diện và đóng vai trò tích cực trong khu vực và trên thế giới.
3. Hai nhà lãnh đạo trao đổi quan điểm về tình hình hiện nay và triển vọngcủa mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan trên mọi lĩnh vực, bao gồm chính trị, anninh-quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư và cam kết mở rộng hợp tác trên mọilĩnh vực nhằm củng cố mối quan hệ và tình hữu nghị giữa hai nước và thúc đẩy hòabình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới.
4. Hai nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy giao lưu, hợp tác chặt chẽ hơn giữa cácđảng chính trị của Thái Lan và Việt Nam, bao gồm trao đổi thông tin, chia sẻkinh nghiệm lãnh đạo, quản lý; tăng cường đối thoại chính trị ở các cấp, đặcbiệt ở cấp cao nhất, tiếp tục đẩy mạnh giao lưu nhân dân; trong đó có giao lưugiữa thanh, thiếu niên và thế hệ trẻ hai nước.
5. Trên cơ sở mối quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Thái Lan tiếp tục pháttriển, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1976, và đánh dấu ýnghĩa lịch sử của chuyến thăm này, hai nhà lãnh đạo đã quyết định đưa quan hệhai nước lên Đối tác Chiến lược nhằm mở ra triển vọng mới cho mối quan hệ hợptác gần gũi hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và pháttriển trong khu vực, cũng như góp phần vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN đoànkết, vững mạnh.
Với mục đích đó, và trên cơ sở các thỏa thuận, khuôn khổ và cơ chế hợp táchiện có, hai nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy quan hệ Đối tác Chiến lược trong cáclĩnh vực sau:
(i) Về quan hệ chính trị: Tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau thông quatrao đổi các chuyến thăm cấp cao và đối thoại chính trị chiến lược; duy trì mốiquan hệ chính trị tốt đẹp tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển và tăng cườnghợp tác trong các lĩnh vực khác.
(ii) Về hợp tác quốc phòng và an ninh: Tăng cường, mở rộng và nâng cao hiệuquả hợp tác quốc phòng và an ninh; tăng cường hợp tác để xử lý các thách thức anninh truyền thống và phi truyền thống; đẩy mạnh hợp tác về lãnh sự; và tái khẳngđịnh cam kết không cho phép bất kỳ một cá nhân hoặc tổ chức nào sử dụng lãnh thổcủa nước mình thực hiện các hoạt động chống lại nước kia.
(iii) Về hợp tác kinh tế: Tăng cường hợp tác về đầu tư, thương mại, nănglượng, viễn thông, công nghệ thông tin và giao thông vận tải; phấn đấu tăng kimngạch thương mại hai nước hàng năm đạt trên 15 tỷ USD vào năm 2020; tăng cườngkết nối giao thông giữa hai nước và với các nước trong khu vực thông qua cácmạng lưới giao thông đường bộ hiện có và hành lang kinh tế, đặc biệt là Hànhlang kinh tế Đông-Tây, tuyến đường số 8 và tuyến đường số 12.
(iv) Về hợp tác xã hội, văn hóa, giao lưu nhân dân và các lĩnh vực hai bêncùng quan tâm: thành lập các Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Thái Lan tại mộtsố trường đại học của mỗi nước; tăng cường hợp tác về lao động; nâng cao vai tròcủa các tổ chức hữu nghị như cộng đồng người Thái Lan tại Việt Nam và người ViệtNam tại Thái Lan cũng như thúc đẩy hợp tác ở các cấp địa phương; và tăng cườnggiao lưu nhân dân thông qua Hội Hữu nghị Việt Nam-Thái Lan và Thái Lan-Việt Nam.
(v) Về hợp tác khu vực và quốc tế: Tăng cường các nỗ lực chung nhằm xây dựngCộng đồng ASEAN gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và trách nhiệm xã hội,phát huy vai trò trung tâm Hiệp hội trong cấu trúc khu vực, vì hòa bình, hợp tácvà phát triển ở khu vực; phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn khu vực và tăngcường phát triển kinh tế vùng và tiểu vùng, bao gồm cả Diễn đàn Mekong với cácđối tác phát triển, thu hẹp khoảng cách phát triển trong khu vực Đông Nam Á;phối hợp ủng hộ các ứng cử viên của nhau trong Liên hợp quốc, các tổ chức quốctế và khu vực.
Để triển khai mối quan hệ Đối tác Chiến lược, hai nhà lãnh đạo nhất trí giaocho hai Bộ Ngoại giao phối hợp cùng các bộ/ngành hữu quan xây dựng Kế hoạch Hànhđộng về các lĩnh vực đã đề cập trên để thảo luận, bàn bạc tại kỳ họp chung củaỦy ban Hỗn hợp về Hợp tác song phương, do Bộ trưởng Ngoại giao hai nước đồng chủtrì.
6. Hai nhà lãnh đạo cam kết làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác giữa hai nướcđể xây dựng một Cộng đồng ASEAN thống nhất, gắn kết và vững mạnh và tăng cườngcác khuôn khổ của ASEAN như ASEAN+1, ASEAN+3, Diễn đàn Khu vực và các cuộc họpcấp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN. Hai nhà lãnh đạo cũng nhất trí thúc đẩy tham vấnvà hợp tác tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế như ACMECS, Tiểu vùngsông Mekong, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM…, cùngnhau giữ gìn và thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển và phồn vinh ởkhu vực và trên thế giới.
7. Hai nhà lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết phối hợp chặt chẽ trong việc duytrì hòa bình và ổn định ở Biển Đông; tăng cường tin cậy và lòng tin lẫn nhauthông qua hợp tác hàng hải, thúc đẩy an ninh hàng hải bao gồm tự do hàng hải vàquá cảnh; thực hiện kiềm chế không sử dụng vũ lực; giải quyết tranh chấp thôngqua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liênhợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 và DOC và tiến tới sớm thông qua COC.
8. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường hợp tác trong việc thựchiện các biện pháp bảo vệ sử dụng nguồn nước chung vì sự phát triển bền vững; vàtiến hành nghiên cứu toàn diện về việc sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.
9. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn Thủ tướng YingluckShinawatra, Chính phủ Hoàng gia, nhân dân Thái Lan về sự đón tiếp trọng thị,nhiệt tình và hữu nghị. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng mời Thủ tướngYingluck Shinawatra sớm sang thăm lại Việt Nam vào thời gian thích hợp cho cảđôi bên, Thủ tướng Yingluck Shinawatra bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời mời.Thời gian cụ thể của chuyến thăm sẽ được thu xếp qua đường ngoại giao.
Bangkok, ngày 26 tháng 6 năm 2013./.
(TTXVN)