Bánh chưng ngày Tết không đơn thuần là một món ăn mà nó đã trở thành văn hóa của người Việt Nam, nó là sự tổng hòa của đất với những gì tinh túy từ thiên nhiên ban tặng con người.
Có lẽ vì thế người ta nhớ bánh chưng như nhớ Tết, nhớ Tết như nhớ về màu bánh Tổ tiên.
Hồn của Tết Việt
Người Việt nấu bánh chưng đã ngàn đời nay, từ đời Vua Hùng mấy ngàn năm về trước. Trong cả ngàn năm đồng hóa, người Việt vẫn giữ trọn nếp nhà. Bánh chưng vẫn đi qua những mùa Tết để gắn bó tình cảm gia đình, làng xóm bền chặt hơn.
Không chỉ người con sống trên đất Việt mới nhớ bánh chưng, mà những người con nơi xứ người xa xôi cũng nhớ bánh chưng da diết.
Có lẽ vì thế mà người ta nhớ bánh chưng như nhớ Tết. Người ta nhớ Tết như nhớ về màu bánh tổ tiên.
Bánh chưng ấy, thứ bánh dân tộc giản dị mà yêu thương của tết Việt, nó không chỉ là món ẩm thực ngày tết mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa tâm linh, được ví như là một món quà của tổ tiên người Việt truyền lại, trở thành linh hồn của ngày Tết.
Dù thời gian có đổi thay và công cụ để nấu chín chiếc bánh chưng ngày nay có nơi, có chỗ cũng đã thay thế bằng nồi áp suất hoặc lửa ga, nhưng chiếc bánh chưng vẫn thế, vẹn nguyên từ dáng hình cho đến nguyên liệu.
Vẫn gạo nếp, đậu xanh, nhân thịt, lá dong, lạt mềm không chỉ nhắc nhở mỗi người về một món ăn mang đậm biểu trưng văn hoá của dân tộc, mà còn khiến cho mỗi người dân đất Việt tự hào hơn, trân quý hơn một sản vật linh thiêng của ngày Tết sum họp, như hồn của Tết Việt trường tồn mãi với thời gian.
Đậm đà bản sắc dân tộc
Ở miền Bắc thường gói bánh chưng còn miền Nam thì gói bánh tét, nói chung 2 loại bánh này như nhau chỉ khác về hình thức bên ngoài và một chút nguyên liệu tùy theo khẩu vị vùng miền.
Bánh chưng ngon độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những nguyên liệu và cách gói.
Gạo nếp trắng phau, vo sạch để ráo nước. Từng hạt chắc mẩy, thơm mùi đặc trưng. Thịt lợn (heo) đầy đủ nạc, mỡ, bì cùng với đỗ (đậu) xanh bỏ vỏ.
Sản phẩm hoàn toàn từ trồng trọt và chăn nuôi. Đơn giản như thế nhưng nó thể hiện tính tư duy sâu sắc của người xưa.
Cắt chiếc bánh chưng, một tổng thể màu sắc hiện lên: Vàng ngà hạt đỗ, bùi bùi thoảng hương, đỏ thịt lợn chín, trắng màu nếp mới, xanh mát lá dong; ngoài cùng là những chiếc lạt được nhuộm đen bởi lá dong luộc chín.
Từ trong ra ngoài thể hiện triết lý: Âm dương, Tam tài và Ngũ hành.
Năm màu tượng trưng cho Ngũ hành trong triết lý phương Đông: Thủy (đen), Hỏa (đỏ), Mộc (xanh), Kim (trắng) tương sinh - tương khắc hài hòa, bổ trợ cho nhau trong tổng thể vuông vức.
Màu vàng ứng với hành Thổ trong thế đất vuông nằm ở trung tâm, tượng trưng cho con người rất quan trọng.
Trong chiếc bánh chưng, hạt đỗ vàng được bao bọc chính giữa bánh, bên cạnh thịt lợn - thể hiện sự quan trọng này.
Bên cạnh hạt đỗ vàng là thịt lợn đỏ. Hai cặp phạm trù âm dương hòa quyện lấy nhau (hạt đỗ - thịt lợn; động vật - thực vật; tĩnh - động) chúng bổ trợ cho nhau trong quá trình phát triển (trong đời sống thực vật và động vật đã có sự nương tựa vào nhau. Thực vật là nguồn sống của động vật, ngược lại, chất thải của động vật tạo năng lượng cho thực vật phát triển).
Cùng bao bọc hạt đỗ - thịt lợn (âm - dương) là màu trắng của nếp. Nếp - hạt đỗ - thịt lợn (âm - dương - âm; thực vật - động vật - thực vật) tạo thành Tam tài.
Tam tài với ba cặp phạm trù âm dương (nếp-thịt lợn, âm-dương), (hạt đỗ-thịt lợn, âm-dương), (nếp-hạt đỗ, âm-dương, nếp được trồng dưới nước - đỗ trồng trên cạn, nước-đất, ướt-khô) hòa quyện và bổ trợ cho nhau trong tổng thể phức hợp.
Và từ âm dương, Tam tài đã phát triển lên Ngũ hành. Đó là bản chất của bánh chưng.
Ngay cả quá trình luộc chín bánh cũng thể hiện triết lý ngũ hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ.
Người ta dùng nước để luộc bánh, lửa được đốt từ củi và tất nhiên dùng nồi lớn (kim) đặt lên ba ông đầu rau (thổ).
Cả năm thứ: Nước, lửa, củi, nồi, ông đầu rau bổ trợ cho nhau, hài hòa bên nhau.
Một điều cũng hết sức độc đáo của bánh chưng đó là thời gian luộc bánh lên tới 10-12 tiếng đồng hồ.
Đây là khâu quan trọng nhất vì luộc bánh chưng mất nhiều thời gian và công sức.
Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc, tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một điểm: đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên tổ tiên, ông bà, cha mẹ trong ngày Tết.
Đây là một nét đẹp lâu đời nhất, truyền thống nhất trong văn hoá tâm linh của người Việt Nam./.