Chương trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn đầu đã được triển khai và đạt được những kết quả tích cực, hàng hóa xuất khẩu ngày càng nâng cao chất lượng, có vị thế trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra khi kim ngạch xuất khẩu chưa ổn định và thiếu tính bền vững, tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp…
Các chuyên gia cho rằng chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 cần tiếp tục được đẩy mạnh trong năm 2012.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Tại hội thảo “Định hướng xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 phục vụ Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của thành phố cùng giai đoạn” được tổ chức mới đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Huỳnh Khánh Hiệp - Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết trong giai đoạn 2006-2010 và năm 2011, xuất khẩu của thành phố chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới và áp lực lạm phát trong nước, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chịu tác động nhiều yếu tố bất lợi, giá nhập khẩu vật tư nguyên liệu bình quân tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ trong nước của Chính phủ để kiềm chế lạm phát, lãi suất vay vốn tăng cao và sự biến động tỷ giá giữa USD và tiền đồng đã làm nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của thành phố giai đoạn này bị ảnh hưởng lớn.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững trong giai đoạn tới, cần có định hướng phát triển xuất khẩu đúng đắn với các giải pháp khả thi nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu phù hợp với thế mạnh của thành phố.
Từ chỗ năm 2000, Việt Nam chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, may mặc, giày dép, thủy sản, nhưng năm 2011, Việt Nam đã có 11 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong số này có 14 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD.
Đó là các mặt hàng như dệt may, dầu thô, điện thoại các loại và linh kiện, giày dép, thủy sản, điện tử máy tính, máy móc thiết bị và dụng cụ, gỗ và sản phẩm gỗ, gạo, cao su, càphê, đá quý và kim loại quý, phương tiện vận tải, xăng dầu.
Hàng hóa Việt Nam hiện có mặt ở 180 nước và lãnh thổ với các thị trường xuất khẩu chính gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Australia...
Tuy nhiên, giáo sư, tiến sỹ Võ Thanh Thu, Ủy viên Hội đồng tư vấn chính sách thương mại quốc tế của VCCI, Trọng tài viên Trọng tài quốc tế Việt Nam cho rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ trọng chiếm gần 40% tỷ trọng xuất khẩu cả nước (2007) nhưng lại đang có xu thế giảm dần, tốc độ luôn thấp hơn tốc độ cả nước.
Bà Thu cảnh báo nếu thành phố không quan tâm thì tỷ trọng này sẽ giảm dần và nếu không có sự thay đổi thì hiệu quả xuất khẩu sẽ không cao. Bởi các mặt hàng xuất khẩu còn mang tính khai thác các nguồn lực, như dệt may, giày dép (khai thác nguồn lao động); dầu thô, thủy sản, gạo, càphê, cao su (khai thác tài nguyên)…
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng kỹ thuật cao vẫn còn thấp, nguyên liệu còn phụ thuộc lớn vào nước ngoài như sữa (60%), giày dép, điện-điện tử (90%)…, nếu như không có sự tổ chức liên kết khéo léo thì nguồn nguyên liệu này cũng sẽ cạn dần.
Nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực mang tính gia công cao, đơn cử như giày dép gia công đến 90%, dệt may gia công gần 60%, thậm chí có những ngành mặc dù kim ngạch xuất khẩu lớn đến trên 1 triệu USD nhưng lại không có thương hiệu riêng.
Trong khi đó các rào cản thương mại có liên quan đến kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, các biện pháp tự vệ… của các nước nhập khẩu ngày càng gia tăng và phức tạp, còn hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là thâm dụng lao động.
Vấn đế đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu thông qua các giải pháp ổn định chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu thuận lợi.
Thành phố cũng phải chủ động xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng xuất khẩu hàng công nghệ cao. Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu bằng cách tạo ra sản phẩm chất lượng, sạch, an toàn, thân thiện với môi trường.
Đưa công nghiệp phần mềm thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực
Đại diện Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết mục tiêu đề ra của Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011-2015 là đảm bảo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 17%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (không tính dầu thô) đạt hơn 100 tỷ USD, đưa doanh thu dịch vụ xuất khẩu đạt khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu.
Trong đó, sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giày và thủy hải sản chế biến đến năm 2015 chiếm tỷ trọng cao (35% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Mục tiêu đến năm 2020, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao sẽ trở thành nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Thành phố trong giai đoạn tới.
Theo tiến sỹ Lê Phan Hoàng Châu, Giám đốc Trung tâm phát triển Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, những năm tới, hai ngành hàng sẽ phát triển mạnh nhất trong khu công nghệ cao là bán dẫn và cơ khí (tự động hóa).
Trong thời gian qua, khu công nghệ cao đã xuất khẩu những sản phẩm chính gồm wafer, cảm biến, mạch in, thiết bị công nghệ thông tin, thiết bị thu tín hiệu, động cơ rung cho điện thoại di động, máy ảnh, y tế…
Ông Châu cho rằng nhu cầu nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm công nghệ cao chiếm khoảng 60% giá trị sản phẩm (50% nguyên liệu trực tiếp và 10% nguyên vật liệu gián tiếp) chủ yếu do các nhà cung ứng nước ngoài cung cấp.
Các nhà đầu tư trong khu công nghệ cao mong muốn tìm kiếm các nhà cung ứng trong nước, nhưng tỷ lệ nội địa hóa chưa đến 5% nhu cầu, chủ yếu là các sản phẩm bao bì, sản phẩm nhựa, đồ gá phục vụ lắp ráp, bảo dưỡng thiết bị.
Hiện trạng vấn đề cung ứng cho các sản phẩm còn cao, tiềm năng phát triển sản phẩm hỗ trợ công nghiệp còn khá lớn.
Do đó, cần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy quá trình nội địa hóa các sản phẩm công nghệ cao bằng các giải pháp như hình thành và phát triển thị trường (chợ) công nghiệp phụ trợ sản phẩm công nghệ cao trong Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước. Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tài chính và triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng… đảm bảo yêu cầu cung ứng của các nhà đầu tư công nghệ cao.
Đồng quan điểm trên, tiến sỹ Trần Du Lịch cho rằng công nghiệp phụ trợ không phát triển thì không thể nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu.
Do đó, thành phố cần phải có chiến lược rõ ràng trong chiến lược xuất khẩu, chú trọng các nhóm ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho cả nền kinh tế, đồng thời phải đặt trong vị trí tổng thể vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó trưởng phòng tổng hợp Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Việt Nam còn xuất khẩu thô nhiều, giá trị gia tăng không cao.
Do đó, chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu là vấn đề quan trọng với định hướng tăng xuất khẩu theo chiều rộng và chiều sâu; xuất khẩu theo hướng tăng dần hàng công nghiệp, chế biến, nông lâm thủy sản, giảm dần tỷ lệ xuất khẩu hàng thô; tiếp tục đa dạng hóa thị trường.
Đối với nông lâm thủy sản cần đi sâu vào chế biến, đối với ngành công nghiệp cần tập trung tăng dần tỷ lệ nội địa hóa, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài, giảm dần nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản, rà soát thêm những nhóm hàng mới, có hàm lượng công nghệ cao, đem lại giá trị gia tăng cao./.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra khi kim ngạch xuất khẩu chưa ổn định và thiếu tính bền vững, tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp…
Các chuyên gia cho rằng chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 cần tiếp tục được đẩy mạnh trong năm 2012.
Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Tại hội thảo “Định hướng xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 phục vụ Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của thành phố cùng giai đoạn” được tổ chức mới đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Huỳnh Khánh Hiệp - Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết trong giai đoạn 2006-2010 và năm 2011, xuất khẩu của thành phố chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới và áp lực lạm phát trong nước, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp chịu tác động nhiều yếu tố bất lợi, giá nhập khẩu vật tư nguyên liệu bình quân tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ trong nước của Chính phủ để kiềm chế lạm phát, lãi suất vay vốn tăng cao và sự biến động tỷ giá giữa USD và tiền đồng đã làm nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của thành phố giai đoạn này bị ảnh hưởng lớn.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững trong giai đoạn tới, cần có định hướng phát triển xuất khẩu đúng đắn với các giải pháp khả thi nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu phù hợp với thế mạnh của thành phố.
Từ chỗ năm 2000, Việt Nam chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, may mặc, giày dép, thủy sản, nhưng năm 2011, Việt Nam đã có 11 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong số này có 14 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD.
Đó là các mặt hàng như dệt may, dầu thô, điện thoại các loại và linh kiện, giày dép, thủy sản, điện tử máy tính, máy móc thiết bị và dụng cụ, gỗ và sản phẩm gỗ, gạo, cao su, càphê, đá quý và kim loại quý, phương tiện vận tải, xăng dầu.
Hàng hóa Việt Nam hiện có mặt ở 180 nước và lãnh thổ với các thị trường xuất khẩu chính gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Australia...
Tuy nhiên, giáo sư, tiến sỹ Võ Thanh Thu, Ủy viên Hội đồng tư vấn chính sách thương mại quốc tế của VCCI, Trọng tài viên Trọng tài quốc tế Việt Nam cho rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh với tỷ trọng chiếm gần 40% tỷ trọng xuất khẩu cả nước (2007) nhưng lại đang có xu thế giảm dần, tốc độ luôn thấp hơn tốc độ cả nước.
Bà Thu cảnh báo nếu thành phố không quan tâm thì tỷ trọng này sẽ giảm dần và nếu không có sự thay đổi thì hiệu quả xuất khẩu sẽ không cao. Bởi các mặt hàng xuất khẩu còn mang tính khai thác các nguồn lực, như dệt may, giày dép (khai thác nguồn lao động); dầu thô, thủy sản, gạo, càphê, cao su (khai thác tài nguyên)…
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thâm dụng kỹ thuật cao vẫn còn thấp, nguyên liệu còn phụ thuộc lớn vào nước ngoài như sữa (60%), giày dép, điện-điện tử (90%)…, nếu như không có sự tổ chức liên kết khéo léo thì nguồn nguyên liệu này cũng sẽ cạn dần.
Nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực mang tính gia công cao, đơn cử như giày dép gia công đến 90%, dệt may gia công gần 60%, thậm chí có những ngành mặc dù kim ngạch xuất khẩu lớn đến trên 1 triệu USD nhưng lại không có thương hiệu riêng.
Trong khi đó các rào cản thương mại có liên quan đến kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, các biện pháp tự vệ… của các nước nhập khẩu ngày càng gia tăng và phức tạp, còn hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là thâm dụng lao động.
Vấn đế đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu thông qua các giải pháp ổn định chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu thuận lợi.
Thành phố cũng phải chủ động xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng xuất khẩu hàng công nghệ cao. Nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu bằng cách tạo ra sản phẩm chất lượng, sạch, an toàn, thân thiện với môi trường.
Đưa công nghiệp phần mềm thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực
Đại diện Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết mục tiêu đề ra của Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011-2015 là đảm bảo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 17%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (không tính dầu thô) đạt hơn 100 tỷ USD, đưa doanh thu dịch vụ xuất khẩu đạt khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu.
Trong đó, sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giày và thủy hải sản chế biến đến năm 2015 chiếm tỷ trọng cao (35% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Mục tiêu đến năm 2020, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao sẽ trở thành nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Thành phố trong giai đoạn tới.
Theo tiến sỹ Lê Phan Hoàng Châu, Giám đốc Trung tâm phát triển Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, những năm tới, hai ngành hàng sẽ phát triển mạnh nhất trong khu công nghệ cao là bán dẫn và cơ khí (tự động hóa).
Trong thời gian qua, khu công nghệ cao đã xuất khẩu những sản phẩm chính gồm wafer, cảm biến, mạch in, thiết bị công nghệ thông tin, thiết bị thu tín hiệu, động cơ rung cho điện thoại di động, máy ảnh, y tế…
Ông Châu cho rằng nhu cầu nguyên vật liệu cho sản xuất sản phẩm công nghệ cao chiếm khoảng 60% giá trị sản phẩm (50% nguyên liệu trực tiếp và 10% nguyên vật liệu gián tiếp) chủ yếu do các nhà cung ứng nước ngoài cung cấp.
Các nhà đầu tư trong khu công nghệ cao mong muốn tìm kiếm các nhà cung ứng trong nước, nhưng tỷ lệ nội địa hóa chưa đến 5% nhu cầu, chủ yếu là các sản phẩm bao bì, sản phẩm nhựa, đồ gá phục vụ lắp ráp, bảo dưỡng thiết bị.
Hiện trạng vấn đề cung ứng cho các sản phẩm còn cao, tiềm năng phát triển sản phẩm hỗ trợ công nghiệp còn khá lớn.
Do đó, cần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy quá trình nội địa hóa các sản phẩm công nghệ cao bằng các giải pháp như hình thành và phát triển thị trường (chợ) công nghiệp phụ trợ sản phẩm công nghệ cao trong Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước. Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tài chính và triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng… đảm bảo yêu cầu cung ứng của các nhà đầu tư công nghệ cao.
Đồng quan điểm trên, tiến sỹ Trần Du Lịch cho rằng công nghiệp phụ trợ không phát triển thì không thể nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu.
Do đó, thành phố cần phải có chiến lược rõ ràng trong chiến lược xuất khẩu, chú trọng các nhóm ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho cả nền kinh tế, đồng thời phải đặt trong vị trí tổng thể vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Theo bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó trưởng phòng tổng hợp Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Việt Nam còn xuất khẩu thô nhiều, giá trị gia tăng không cao.
Do đó, chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu là vấn đề quan trọng với định hướng tăng xuất khẩu theo chiều rộng và chiều sâu; xuất khẩu theo hướng tăng dần hàng công nghiệp, chế biến, nông lâm thủy sản, giảm dần tỷ lệ xuất khẩu hàng thô; tiếp tục đa dạng hóa thị trường.
Đối với nông lâm thủy sản cần đi sâu vào chế biến, đối với ngành công nghiệp cần tập trung tăng dần tỷ lệ nội địa hóa, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài, giảm dần nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản, rà soát thêm những nhóm hàng mới, có hàm lượng công nghệ cao, đem lại giá trị gia tăng cao./.
Việt Âu (TTXVN/Vietnam+)