Tình trạng vỡ nợ của các quốc gia đã tăng đáng kể từ năm 2020 đến nay - theo báo cáo mới nhất của hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings.
Báo cáo cho biết từ năm 2020 đến quý 1 năm 2023 đã xảy ra 14 vụ vỡ nợ liên quan đến chín quốc gia bao gồm Belarus, Liban, Ghana, Sri Lanka, Zambia, Argentina, Ecuador, Suriname và Ukraine.
Gánh nặng nợ liên tục gia tăng và các trường hợp khẩn cấp bất ngờ là nhân tố then chốt khiến tỷ lệ vỡ nợ tăng.
Trước đó, giai đoạn từ 2000-2019 chỉ xảy ra 19 vụ vỡ nợ liên quan đến 13 quốc gia.
Các quốc gia vỡ nợ từ năm 2020 đến nay tốn nhiều thời gian hơn để tái cấu trúc nợ. Thời gian vỡ nợ kéo dài của những nước này trung bình là 107 ngày, cao hơn 35 ngày so với mức trung bình của năm 2020.
Có năm quốc gia chưa trả được nợ và 13 nước thị trường mới nổi bị xếp hạng tín nhiệm mức CCC+ hoặc thấp hơn - theo Fitch Ratings.
Môi trường tài chính và kinh tế vĩ mô toàn cầu vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt là đối với các quốc gia bị xếp hạng tín nhiệm thấp. Nhiều quốc gia có chủ quyền bị xếp hạng tín nhiệm mức CCC+ đồng nghĩa nguy cơ vỡ nợ cao - báo cáo cho biết.
Đánh giá xếp hạng tín nhiệm trung bình của các nước thị trường mới nổi đầu năm nay rơi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là BB-.
[Liên hợp quốc cảnh báo nhiều quốc gia đứng trước nguy cơ vỡ nợ]
Tổng cộng 13 quốc gia bị xếp hạng tín nhiệm ở mức CCC+ hoặc thấp hơn, chiếm 16% các nước thị trường mới nổi, trong đó Argentina ở mức C, El Salvador và Ukraine ở mức CC, Ethiopia và Pakistan mức CCC-, Congo, Mozambique và Tunisia CCC+.
Gánh nặng nợ của chính phủ liên tục tăng trong 10 năm qua, trong đó đồng USD mạnh lên đã gây cú sốc nghiêm trọng đối với các nước thị trường mới nổi vay mượn nhiều ngoại tệ - Fitch Ratings chỉ rõ.
Trong số các quốc gia được xếp hạng tín nhiệm, tỷ lệ nợ trung bình của chính phủ trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng đều đặn từ 31% năm 2008 lên 48% trước COVID-19 và tăng mạnh lên 60% vào cuối năm 2020, sau đó giảm xuống còn 56% vào cuối năm 2022, liên quan đến lạm phát.
Điều này phần nào cho thấy các quốc gia có nền tảng tín dụng tương đối yếu đã dựa vào thị trường trái phiếu châu Âu và Trung Quốc để vay nhiều hơn trong những năm gần đây.
Các quốc gia có sức bền tương đối thấp rất khó ứng phó với một loạt tình huống bất ngờ, bao gồm cú sốc nghiêm trọng do đại dịch COVID-19, tác động từ cuộc xung đột Nga-Ukraine đối với giá thực phẩm và năng lượng, lạm phát toàn cầu và chính sách tiền tệ thắt chặt đột ngột - báo cáo cho biết.
Theo một số báo cáo khác gần đây, số lượng các quốc gia đang phát triển có nguy cơ khủng hoảng nợ tăng lên mức cao kỷ lục sẽ là vấn đề ưu tiên trong chương trình nghị sự của các nhà lãnh đạo chính trị, bộ trưởng tài chính và các thống đốc ngân hàng trung ương.
Lạm phát bùng nổ, chi phí đi vay leo thang và đồng USD mạnh đã khiến việc trả nợ và huy động dòng tiền trở nên đắt đỏ hơn đáng kể đối với hàng chục quốc gia đang phát triển.
Đầu tháng trước, Giám đốc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), ông Achim Steiner đã kêu gọi gia tăng các biện pháp khẩn cấp nhằm hỗ trợ 52 nước đang đối mặt khủng hoảng nợ, thậm chí đứng trước nguy cơ vỡ nợ, giảm bớt gánh nặng này.
Bên lề Hội nghị lần thứ 5 của Liên hợp quốc về các nước kém phát triển diễn ra tại Doha (Qatar), ông Steiner cho biết 25 trong số 52 nước gặp vấn đề về nợ đang phải chi khoảng 20% thu nhập công chỉ để chi trả cho các khoản nợ.
Ông nhấn mạnh thực trạng nợ nần tại các nước đang phát triển này hiện ở mức rất nghiêm trọng, khi tất cả 52 nước "đang trong tình trạng nợ nần chồng chất, hoặc rất gần với nguy cơ vỡ nợ."
Trước đó, UNDP đã công bố một báo cáo, trong đó kêu gọi các nước chủ nợ xóa 30% nợ nước ngoài phát sinh trong năm 2021 cho 52 nền kinh tế đang gặp khó khăn, bao gồm Argentina, Liban, Ukraine, 23 nước khu vực phía Nam sa mạc Sahara của châu Phi, 10 nước khu vực Mỹ Latinh-Caribe và tám nước tại Đông Á và Thái Bình Dương.
Ông kêu gọi nỗ lực quốc tế nhằm tăng tính thanh khoản, cũng như các giải pháp tái cơ cấu và gia hạn nợ, tránh để các nước trên lâm vào cảnh vỡ nợ./.