Tìm nguyên nhân sạt lở Làng Nủ: Khẩn thiết trồng rừng, gia cường ổn định mái dốc

Sau thảm họa sạt lở Làng Nủ, giới chuyên gia khuyến nghị Nhà nước cần nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm đồng thời trồng rừng, gia cường ổn định mái dốc của các khu vực có nguy cơ trượt, sạt lở.

Vết tích của trận lũ ống, lũ quét kéo dài từ đỉnh núi Voi xuống nơi hàng trăm con người Làng Nủ đang sinh sống bình yên, sáng 10/9. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)
Vết tích của trận lũ ống, lũ quét kéo dài từ đỉnh núi Voi xuống nơi hàng trăm con người Làng Nủ đang sinh sống bình yên, sáng 10/9. (Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN)

Cơn bão Yagi (bão số 3) và hoàn lưu của bão vừa qua đã “đổ” xuống các tỉnh, thành phố phía Bắc một lượng mưa khổng lồ, gây ra lũ quét, sạt lở đất đá nghiêm trọng. Trong đó, thảm họa sạt lở vùi lấp thôn Làng Nủ (ở huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) đã gây thiệt hại khủng khiếp về người và của.

Sau vụ việc trên, giới chuyên gia địa chất đã nhanh chóng vào cuộc nghiên cứu và khuyến nghị Nhà nước cần nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm; các địa phương cần khẩn thiết trồng rừng, gia cường ổn định mái dốc tại các khu vực có nguy cơ trượt, sạt lở - bởi trong điều kiện biến đổi khí hậu, thiên tai đang ngày khốc liệt, nguy cơ nhiều “thảm họa Làng Nủ” sẽ còn xảy ra.

Sẽ còn nhiều “thảm họa Làng Nủ”

Thông tin tại Hội thảo khoa học “Thảm họa Làng Nủ - Nguyên nhân và giải pháp phòng tránh” diễn ra sáng 2/10, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Châu Lân (Giảng viên Bộ môn Địa kỹ thuật, Trường Đại học Giao thông vận tải) cho biết qua khảo sát thực tế, nhóm nghiên cứu của ông bước đầu xác định nguyên nhân chính dẫn tới vụ sạt lở vùi lấp thôn Làng Nủ vào đầu tháng 9/2024, là do lượng mưa quá lớn.

“Theo trạm Việt Tiến, lượng mưa tích lũy ngày 9/9 lên đến 500mm, ngày 10/9 lượng mưa đạt 633mm (bằng 1/4 lượng mưa trung bình cả năm ở tỉnh Lào Cai). Lượng mưa giờ và lượng mưa tích lũy trong 3 ngày liên tiếp quá lớn đã khiến đá phiến phong hóa mạnh, dẫn đến trượt lở khối đất trên núi Voi. Phần vật liệu này sau khi trượt xuống, tích tụ vào đoạn co hẹp phía dưới, đã tạo thành đập tạm thời trước khi vỡ với dòng chảy quá lớn kèm bùn đá, đất, gây nên thảm họa,” ông Lân phân tích.

Có chung nhận định, Giáo sư Đỗ Minh Đức - Trưởng Bộ môn Địa kỹ thuật và Phát triển hạ tầng (Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên) nhấn mạnh khu vực thôn Làng Nủ là nơi hội tụ các điều kiện địa chất, địa hình phức tạp, nên khi kết hợp với lượng mưa lớn, đá phiến rất dễ bị phong hóa, dẫn tới phát sinh sạt lở.

“Tuy nhiên, khu vực có điều kiện địa hình, địa chất và đặc điểm phân bố dân cư tương tự như Làng Nủ không phải là cá biệt mà khá phổ biến ở nhiều khu vực miền núi Việt Nam,” ông Đức nói và cảnh báo trong điều kiện biến đổi khí hậu, thiên tai đang ngày khốc liệt, nguy cơ xảy ra sạt lở như “thảm họa Làng Nủ” vẫn luôn tiềm ẩn tại các khu vực miền núi khác (nhất là các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai).

Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus bên lề hội thảo, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Tạ Đức Thịnh, Chủ tịch Hội Địa chất công trình và Môi trường Việt Nam, cũng nhấn mạnh trượt lở đất đá là hiện tượng rất phổ biến, năm nào cũng xảy ra, nhất là sau các trận mưa lớn như hoàn lưu bão số 3 vừa qua.

vnp_giao su duc thinh.PNG
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Tạ Đức Thịnh, Chủ tịch Hội Địa chất công trình và Môi trường Việt Nam. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)

Tuy vậy, điều ông Thịnh lưu ý là tại các khu vực vùng núi, mặc dù đã có một số trạm dự báo lượng mưa và hệ thống cảnh báo nguy cơ sạt, trượt lở đất đá, song vẫn đang ở tỷ lệ nhỏ, chưa chi tiết bao quát được phạm vi rộng. Thực trạng này dẫn tới việc cảnh báo sớm chính xác về lượng mưa, điểm nguy cơ trượt lở vẫn còn hạn chế.

Các giải pháp cần triển khai cấp bách

Trước thực tế trên, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Tạ Đức Thịnh khuyến nghị thời gian tới, Nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn vào các hệ thống cảnh báo, dự báo sớm các điểm nguy cơ sạt, trượt lở đất đá với tỷ lệ lớn hơn để có số liệu công bố kịp thời. Khi có số liệu dự báo, cảnh báo thì việc quan trọng là cần phải công bố nhanh chóng.

“Qua các vụ thảm họa thiên tai xảy ra trong thời gian qua cho thấy nếu dự báo, cảnh báo sớm hơn được khoảng 30 giây đến 1 phút, về lượng mưa hay các điểm có nguy cơ xảy ra trượt, sạt lở, chúng ta đã có thể cứu được rất nhiều người,” ông Thịnh nói.

Có chung quan điểm, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Châu Lân cho rằng sau hàng loạt sự cố sạt lở đã xảy ra, việc quan trọng là cần nâng cấp ngưỡng cảnh báo về lượng mưa; xác định được sớm các khu vực có địa hình, địa chất, đặc điểm tương tự như khu vực thôn Làng Nủ để người dân chủ động tìm cách phòng tránh an toàn kịp thời.

Các địa phương cũng cần khẩn thiết triển khai là trồng rừng và gia cường ổn định mái dốc của các khu vực đã sạt lở và đang có nguy cơ trượt, sạt lở; đào hệ thống rãnh đỉnh thoát nước, hoặc che phủ bạt, HDPE dùng thép đóng ghim xuống các vị trí đã hình thành vết nứt để nước không ngấm sâu vào các khu vực có vết nứt…

Góp thêm giải pháp, Giáo sư Đỗ Minh Đức cho rằng trước mắt Nhà nước cần xây dựng bộ cơ sở dữ liệu, thành lập hệ thống bản đồ các tỷ lệ để khoanh định được các khu vực có rủi ro cao; bản đồ, cơ sở dữ liệu các đối tượng chịu tác động về tự nhiên, nhân sinh; bản đồ rủi ro và các kịch bản ứng phó phục vụ quản lý, kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn với thiên tai trên các vùng đất dốc.

Cùng với đó, các hệ thống quan trắc mưa hiện tại cần có mật độ cao hơn cũng như phát hiện sớm mưa lớn cực đoan bởi mưa là yếu tố chủ yếu kích hoạt trượt lở; nâng cao độ chính xác công tác dự báo qua ứng dụng phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo; tăng cường truyền thông thông tin cảnh báo sớm, đảm bảo chính quyền các cấp, đặc biệt là người dân trong vùng bị tác động của trượt lở nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác và hiểu rõ các hành động cần triển khai khi có yêu cầu.

“Khi rủi ro trượt lở đạt đến mức rủi ro cấp 1 theo nghị định của Chính phủ, chính quyền địa phương cần hạn chế người và phương tiện lưu thông lân cận các khu vực nguy cơ cao. Khi rủi ro tới cấp 2 và cao hơn, cần cấm các phương tiện lưu thông qua các khu vực nguy cơ cao; di chuyển dân trong khu vực nguy cơ cao đến nơi an toàn và chỉ quay lại khi không còn cảnh báo nguy cơ trượt lở,” ông Đức nhấn mạnh.

Về các giải pháp trung hạn, ông Đức khuyến nghị các địa phương cần ưu tiên đảm bảo an toàn các khu vực tập trung dân cư; kiểm soát được tác động tiêu cực của nước mưa và nước mặt: thu thoát nước mưa, nước mặt để giảm tải tác động nhân sinh lên đất dốc, trong một số trường hợp cần có cả thoát nước ngầm; bảo vệ, phát triển rừng đầu nguồn; xây dựng quy trình, hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng các công trình dân dụng, giao thông, thủy lợi, thủy điện trong vùng có rủi ro trượt lở./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục