Thống đốc Ngân hàng giải trình về vấn đề lãi suất

Năm 2011, Ngân hàng Nhà nước phấn đấu đạt được mục tiêu lạm phát cả năm không quá 7%, để ổn định và giảm dần lãi suất thị trường.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thời gian qua, đặc biệt làvấn đề lãi suất tăng cao và diễn biến không ổn định, ngày 25/12, Ủy ban Kinh tếcủa Quốc hội tổ chức phiên họp mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáogiải trình về thực trạng và những giải pháp xung quanh vấn đề lãi suất hiện này.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu tiền tệnăm 2010 cơ bản phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ, đảm bảo an toàn hệ thống vàphương tiện thanh toán trong nền kinh tế.

Cụ thể, lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông khoảng 75% chỉ tiêu được Thủtướng phê duyệt. Tổng phương tiện thanh toán tăng 23% (đã loại trừ hư số tăngcủa tỷ giá và giá vàng). Tiền mặt trong lưu thông tăng khoảng 15%, tỷ trọng tiềnmặt lưu thông so với tổng phương tiện thanh toán khoảng 14%. Tín dụng tăng27,65% (đã loại trừ hư số tăng của tỷ giá vàng), tín dụng bằng Việt Nam đồngtăng 25,34%, bằng ngoại tệ tăng 37,76%.

Đề cập đến một số vấn đề về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, Thống đốc Ngânhàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết trên thị trường tiền tệ, có ba nhóm lãisuất chủ yếu: một là lãi suất kinh doanh (huy động, cho vay…) của tổ chức tíndụng được hình thành trên cơ sở cung-cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi rovà sự điều tiết của ngân hàng trung ương; hai là lãi suất vay mượn ngắn hạn lẫnnhau giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, chịu tácđộng chủ yếu của cung-cầu vốn khả dụng của tổ chức tín dụng và điều tiết của lãisuất chính sách Ngân hàng Trung ương; ba là lãi suất chính sách của Ngân hàngTrung ương (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu…) điều tiết trực tiếp lãisuất thị trường nội tệ liên ngân hàng và định hướng lãi suất thị trường, phù hợpvới các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Ông Giàu cho biết theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 về chínhsách tiền tệ, công cụ lãi suất và từ thực tiễn nền kinh tế, thị trường tàichính-tiền tệ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước điều hành lãi suất thị trường tiền tệtheo cơ chế là hàng tháng xác định và công bố lãi suất chính sách: Lãi suất cơbản bằng Việt Nam đồng để định hướng lãi suất thị trường tiền tệ; lãi suất táicấp vốn, là mức lãi suất “trần” trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, việc điềuchỉnh lãi suất này phản ánh “nới lỏng” hay “thắt chặt” tiền tệ; lãi suất táichiết khấu, thấp hơn lãi suất tái cấp vốn 2%/năm; lãi suất nghiệp vụ thị trườngmở đóng vai trò chủ đạo để “bơm tiền ra” hoặc”hút tiền về,” tác động đếncung-cầu vốn và lãi suất thị trường; lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ViệtNam đồng đối với tổ chức tín dụng được quy định ở mức thấp.

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động Việt Nam đồng có chênhlệch mức dương thấp so với lạm phát, kém hấp dẫn so với lãi suất USD và có nhiềunhân tố gây sức ép tăng: lãi suất thực dương hiện nay khoảng 1,47%/ năm, thấphơn các năm gần đây (2009 1,91%/năm; 2006 là 2,23%/năm).

Tháng 11 và 12 cung vốn giảm do tốc độ tăng tín dụng lớn hơn huy động vốn, quanhệ giữa lãi suất Việt Nam đồng - tốc độ tăng của tỷ giá - lãi suất USD có chênhlệch âm (-2,38%), khác với các năm gần đây (2005: 3,79%/năm; 2006: 2,87%/năm;2007 là 4,06%/năm): thanh khoản trên thị trường nội tệ liên ngân hàng không dồidào, lãi suất vẫn có sức ép tăng; các ngân hàng thương mại có nhu cầu lớn huyđộng vốn dài hạn nhưng thị trường tiền tệ chưa ổn định, người gửi tiền ít gửi kỳhạn dài (trên 3 tháng) làm cho các tổ chức tín dụng phải ấn định lãi suất huyđộng ở mức cao để tăng khả năng huy động vốn.

Về các giải pháp ổn định thị trường tiền tệ năm 2011, báo cáo của Ngân hàng Nhànước nhấn mạnh các giải pháp kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất ngay từ nhữngtháng đầu năm (6 tháng đầu năm dưới 3,5%) để phấn đấu đạt mục tiêu lạm phát cảnăm không quá 7% là điều kiện cơ bản để ổn định và giảm dần lãi suất thị trường.

Giải pháp tiếp theo được nhấn mạnh là các tổ chức tín dụng tiếp tục ấn định lãisuất huy động vốn theo mức “trần” 14%/năm và giảm dần theo xu hướng lạm phát,điều hành linh hoạt các mức lãi suất chính sách của Ngân hàng Nhà nước, hoànthiện cơ chế điều hành lãi suất theo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước, trongđó lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay bình quân thực tế bằng Việt Nam đồng củatổ chức tín dụng, do Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố hàng tháng, làm cơsở để thực hiện quản lý nhà nước đối với quan hệ dân sự theo quy định của Bộluật Dân sự, cho vay nặng lãi của Bộ luật Hình sự và các quan hệ kinh tế kháctheo quy định của pháp luật; lãi suất kinh doanh (huy động và cho vay) của tổchức tín dụng được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận.

Ngân hàng Nhà nước cũng nhấn mạnh giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoạitệ, giá vàng biến động phù hợp với giá vàng thế giới và không có biến động độtbiến, kiểm soát tỷ giá biến động thấp hơn mức lạm phát kỳ vọng; tiếp tục thựchiện các giải pháp để tăng cung ngoại tệ, giảm cầu ngoại tệ như trong năm 2010,đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ. Cùng với đó là các giải pháp đảmbảo cung-cầu vốn thị trường, giám sát chặt chẽ tình hình kinh doanh của từng tổchức tín dụng…; nâng cao tần suất và chất lượng công tác truyền thông của các cơquan Chính phủ, nhất là về chính sách tiền tệ, tài khóa, thương mại để tạo tâmlý tốt cho công chúng đồng thuận với các chính sách kinh tế của Nhà nước.

Trao đổi tại cuộc họp, đại biểu Lê Quốc Dung cho rằng lãi suất của Việt Nam caohơn các nước trong bối cảnh hiện nay là biểu hiện rất không bình thường, ảnhhưởng lớn đến đời sống người dân và đề nghị xem xét trách nhiệm sinh ra nhữngngân hàng yếu kém thuộc về ai và phải xử lý vấn đề này như thế nào. Ông Dungđánh giá việc điều hành vừa qua vừa bị động, vừa đuổi theo thị trường.

Đại biểu Cao Sỹ Kiêm nêu điều hành ngân hàng lãi suất phải theo thị trường, phảithực dương, nhưng làm sao điều hành vừa thực dương vừa đảm bảo hài hòa lợi íchngười dân, doanh nghiêp, đây là câu hỏi cần trả lời. Có ý  kiến cho rằng việc lãi suấttăng cao có nguyên nhân phối hợp các chính sách liên quan, đặc biệt là chínhsách tiền tệ, tín dụng, tài khóa...

Phát biểu cuối phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên đánh giá nhữngthông tin và ý kiến trao đổi tại cuộc họp là một trong những căn cứ để Chính phủvà các bộ, ngành nghiên cứu thấu đáo trong hoạch định chính sách vĩ mô, trong đócó chính sách tiền tệ tài chính để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, trong đótập trung cao cho ổn định kinh tế vĩ mô./.

Quỳnh Hoa (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục