Cùng với lịch sử phát triển của dân tộc, Thành Nam xưa mang trong mình vẻ trang nghiêm, cổ kính với những nét đẹp riêng về văn hóa. Xưa kia, cộng đồng dân cư sinh sống, lập nghiệp ở Thành Nam đã hình thành nên hai loại phố cơ bản là những phố chuyên buôn bán, hoạt động thương mại và những phố có nghề thủ công truyền thống với những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hoá bản địa độc đáo, đa dạng, phong phú.
Chính điều này đã góp phần tạo nên mảnh đất Thành Nam giàu truyền thống văn hóa và mang đặc điểm của một vùng đất đậm nét “Làng cổ, phố nghề.”
Phố xưa, nghề cũ
Qua những chặng đường lịch sử (thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX), cũng như Hà Nội, Huế, Thành Nam xưa phát triển theo mô hình từ “Làng” lên “Đô” rồi lên “Thị.” Khi mới là một doi đất, một xóm chài nhỏ bé của phủ Thiên Trường, nơi phát tích của vương triều Trần, vào những năm tháng chống quân xâm lăng phương Bắc (thế kỷ XIII), trên dải đất này, biết bao người con đã đồng tâm, đồng lòng cầm gươm ra trận. Đến khi Tức Mặc được vua Trần Thánh Tông đổi tên thành Phủ Thiên Trường, cho xây dựng cung Trùng Quang, Trùng Hoa, Đệ Nhất, đệ Nhị…thì vùng đất này được coi như một Hành cung- kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Do đó, Thành Nam xưa có nhiều làng cổ nổi tiếng về địa lý, văn hóa, chính trị và phong tục tập quán mang vóc dáng riêng, độc đáo như làng Vị Hoàng, làng Phụ Long, làng Năng Tĩnh.
Làng Vị Hoàng thời vương triều Trần là một quân doanh quan trọng. Vào năm 1865, vua Tự Đức đổi tên làng Vị Hoàng thành Vị Xuyên bao gồm các thôn Thi Hạ, Khoái Đồng, Lộng Đồng, Thi Thượng, Hậu Đồng. Xưa kia, Vị Hoàng nổi danh là đất khoa bảng với nhiều bậc khoa bảng, các vị danh nho nổi tiếng về tài thi phú. Làng Vị Hoàng có 4 dòng họ lớn là Trần, Phạm, Vũ, Nguyễn, có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to; tiêu biểu như Tam nguyên Trần Bích San. Năm 1864, ông đỗ đầu liền 3 khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình, được vua Tự Đức khen ngợi: “Nhất cử đăng khoa thiên hạ hữu. Tam nguyên liên trúng quốc triều vô” (Nghĩa là: Một lần đi thi đỗ, thiên hạ thường có. Đỗ đầu liền ngay cả ba khoa thi, trong triều chưa có). Hay nhà nho Vũ Công Độ, đỗ Tiến sỹ năm Minh Mạng thứ 13 được phong chức lĩnh Bố chánh Thái Nguyên; Võ Hoàng Phát, Trần Dương Quang, Trần Doãn Đạt là người có tài trí, đức độ, sau khi đỗ đạt đều là những vị quan thanh liêm, vì dân, vì nước, được người đời kính trọng, nể phục. Đất Vị Hoàng còn nổi tiếng là đất văn chương, thi phú với nhiều tên tuổi lớn như Trần Tế Xương, Vũ Công Tự, Phạm Đức Kế, Nguyễn Hồng Dương, Phạm Ưng Thuần.
Nhắc tới làng cổ trên đất Thành Nam xưa cũng phải kể tới vùng quê được mệnh danh là đất “Nổi Rồng”- đó chính là làng cổ Phụ Long.
Xưa kia, khi vua Minh Mạng chưa cho khai con sông Đào, làng Phù Long trải rộng sang cả đất Vị Khê, Vạn Diệp nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, hoa tươi, cây cảnh chuyên để phục vụ cung Thiên Trường. Các giống hoa được chọn lựa chuyên trồng phải là giống hoa quý, tượng trưng cho nét đẹp sang trọng, quyền uy như: Hải Đường, Dạ Quyên, Thủy Tiên, Ngọc Lan, Tùng La Hán, Bạch Ngọc, Trà Xâm…
Cùng với thời gian, thú chơi hoa, cây cảnh đã vượt ra khỏi cung đình, ăn sâu vào nếp sinh hoạt của “Tứ dân” (sỹ, nông, công, thương), trở thành sản phẩm hàng hóa dùng để trao đổi, mua bán trong các phiên chợ vùng, làng góp phần tạo nên những nét đẹp văn hoá của đất và người Thành Nam. Theo tài liệu để lại, làng Phụ Long gồm có 8 giáp: Đông, Đoài, Bắc, Nhất, Nhị Tam, Tứ, Năm. Sau đó, làng hình thành những vùng khác như Quán Chuột, Vườn Dâu, Cồn Chuối, Cồn Vịt. Nếu như đất và người Vị Hoàng trọng “Tước” thì nếp sống của cộng đồng cư dân làng “Nổi Rồng” lại trọng “Xỉ”. Điều này được thể hiện cụ thể ở tục Yến lão, lễ mừng thọ trong mỗi dịp tân xuân với mục đích, ý nghĩa nhằm tỏ đạo “Uống nước nhớ nguồn” đối với người cao tuổi.
Khi thực dân Pháp xâm lược, cũng như các miền quê khác, làng cổ đất Thành Nam dần dần bị “đô thị hóa,” mọc lên nhiều xí nghiệp, nhà máy, công sở, nhưng nhân dân bị áp bức, sống cảnh đời thợ làm thuê cơ cực. Dưới chế độ thực dân, phong kiến, với dã tâm cướp nước, kẻ thù đã thực hiện nhiều chính sách mị dân tiêu cực. Đây là nguyên nhân làm mất dần đi vẻ đẹp và các phong tục truyền thống cũng như giá trị văn hóa cổ truyền của các làng quê.
Nét tài hoa người Thành Nam
Nằm giữa hạ lưu 2 con sông lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy, Thành Nam xưa vốn là một trung tâm thương nghiệp, có nền thủ công mỹ nghệ đa dạng, các phố phường nổi tiếng với nghề thủ công nghiệp, buôn bán sôi động chẳng kém Thăng Long, phố Hiến. Nhiều con phố được đặt tên theo các phường nghề, cho thấy sự phát triển về kinh tế, xã hội, xứng với vị thế trung tâm của vùng Nam đồng bằng sông Hồng.
Trải qua 750 năm hình thành và phát triển, Thành Nam thực sự là nơi “đất lành chim đậu," quy tụ cư dân từ các miền về sinh sống, lập nghiệp. Các dòng họ ở mọi miền về đây mang theo những nghề truyền thống độc đáo kết tạo nên những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đa dạng, phong phú. Do đó, Thành Nam xưa được mệnh danh là “kẻ chợ”, cộng đồng dân cư sinh sống và lập nghiệp theo phương cách “buôn có bạn, bán có phường”, hình thành nên hai loại phố cơ bản: những đường phố chuyên buôn bán, hoạt động thương mại và phố có nghề thủ công truyền thống.
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mỗi làng nghề ở đây không chỉ đơn thuần là sản phẩm tiêu dùng, phục vụ đời sống dân sinh, mà còn là những sản phẩm mang ý nghĩa văn hoá độc đáo, là kết quả từ quá trình lao động, sáng tạo từ bàn tay, khối óc mang đậm dấu ấn tinh hoa và môi trường văn hoá của đất và người Thành Nam từ bao đời. Những chủ nhân của các sản phẩm độc đáo ấy không chỉ là người gốc Thiên Trường, mà còn là sự hợp tụ của những người thợ tài hoa trên khắp các vùng miền và cả trấn Sơn Nam Hạ tìm về đây sinh sống, lập nghiệp, hành nghề. Phố Hàng Cấp xưa là nơi chuyên nghề dệt cấp - một thứ lụa quý dệt bằng tơ nõn, dệt lĩnh, the, gấm.
Những người thợ vừa quay tơ, vừa dệt vốn gốc làng Đại Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Phúc (Hà Tây cũ). Còn phố Hàng Tiện, thời thịnh vượng có hơn 40 hộ thuộc 9 dòng họ làm nghề tiện có tay nghề giỏi về mộc, chạm khắc từ làng Chôm (Hà Tây cũ) và những người thợ gốc La Xuyên, Cát Đằng xưa là đất Vọng Doanh (Ý Yên). Phố Hàng Khay nổi tiếng với mặt hàng sập gụ, tủ chè, tủ ba buồng bằng gỗ gụ, gỗ trắc, gỗ mun quý giá. Qua chợ Rồng là đến phố nghề Hàng Nón, Mải Màn, Hàng Thiếc, Hàng Đàn, Hàng Giầy. Các hộ dân ở con phố Mải Màn là dân làng Dịch Diệp (Trực Ninh), làng Thịnh, Mỹ Hưng (Mỹ Lộc), làng Hoa Chiểu, Tiên Lữ (Hưng Yên).
Ngoài các sản phẩm chăn, màn, họ còn sản xuất các loại khăn xếp bằng lượt, nhiễu. Bên cạnh Hàng Sắt là phố Hàng Đàn, ban đầu chỉ bán các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, đàn bầu, nhị, sáo. Sau đó, những người thợ từ làng Cao Đà, Lý Nhân (Hà Nam) nổi tiếng với nghề làm đình đến sinh sống, làm ra các mặt hàng nổi tiếng: ngai, bài vị, hương án, cuốn thư, hoành phi, câu đối. Phố Hàng Mành chủ yếu là người làng Đỗ Xá (Nam Trực), sau khi học nghề từ quê Giới Tế, Yên Phong (Hà Bắc cũ) về đây định cư, làm nghề. Ngoài ra, không thể kể đến các sản phẩm dệt may, tơ tằm Nam Định đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trong nước và nước ngoài.
Bên cạnh những phố nghề thủ công, Thành Nam xưa là trung tâm thương mại, buôn bán giao thương sầm uất, nhất là vào thế XIX, sau khi vua Minh Mạng cho đào con sông nối liền giữa sông Hồng và sông Đáy. Bên cạnh những phố buôn bán, Thành Nam xưa còn có các khu chợ “đầu mối”, là nơi giao thương nổi tiếng, thu hút các thương lái giỏi giang từ các các tỉnh trong cả nước. Chợ Rồng ra đời dưới thời vua Tự Đức, năm 1890, chợ được tu sửa, mở rộng và được coi là trung tâm thương mại lớn thứ hai khu vực Bắc Kỳ (sau chợ Đồng Xuân, Hà Nội). Ngoài ra, Thành Nam còn có chợ Đò Chè, chợ Vị Hoàng, chợ Cửa Trường, chợ Năng Tĩnh có đặc thù riêng về mặt hàng, sản phẩm và kiến trúc.
Hơn 750 năm đã đi qua với biết bao thăng trầm của lịch sử. Thành Nam hôm nay đang từng bước đi lên, phát triển không ngừng. Những giá trị văn hoá truyền thống lâu đời vẫn đang được người dân nơi đây lưu giữ để truyền lại cho các thế hệ con cháu mai sau. Nơi đây, vẫn còn những con phố tường mái rêu phong, những tên làng, tên phố đã đi vào sử sách, đồng hành cùng với thời gian như: Bến Ngự, Hàng Tiện, Hàng Đồng, Bến Thóc, Hàng Sắt, Máy Dệt, Máy Tơ, Cột cờ, Chùa Vọng Cung… Đây chính là những nét đẹp, những dấu ấn không thể phai mờ về mảnh đất có bề dày lịch sử hàng trăm năm văn hiến./.
Chính điều này đã góp phần tạo nên mảnh đất Thành Nam giàu truyền thống văn hóa và mang đặc điểm của một vùng đất đậm nét “Làng cổ, phố nghề.”
Phố xưa, nghề cũ
Qua những chặng đường lịch sử (thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX), cũng như Hà Nội, Huế, Thành Nam xưa phát triển theo mô hình từ “Làng” lên “Đô” rồi lên “Thị.” Khi mới là một doi đất, một xóm chài nhỏ bé của phủ Thiên Trường, nơi phát tích của vương triều Trần, vào những năm tháng chống quân xâm lăng phương Bắc (thế kỷ XIII), trên dải đất này, biết bao người con đã đồng tâm, đồng lòng cầm gươm ra trận. Đến khi Tức Mặc được vua Trần Thánh Tông đổi tên thành Phủ Thiên Trường, cho xây dựng cung Trùng Quang, Trùng Hoa, Đệ Nhất, đệ Nhị…thì vùng đất này được coi như một Hành cung- kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Do đó, Thành Nam xưa có nhiều làng cổ nổi tiếng về địa lý, văn hóa, chính trị và phong tục tập quán mang vóc dáng riêng, độc đáo như làng Vị Hoàng, làng Phụ Long, làng Năng Tĩnh.
Làng Vị Hoàng thời vương triều Trần là một quân doanh quan trọng. Vào năm 1865, vua Tự Đức đổi tên làng Vị Hoàng thành Vị Xuyên bao gồm các thôn Thi Hạ, Khoái Đồng, Lộng Đồng, Thi Thượng, Hậu Đồng. Xưa kia, Vị Hoàng nổi danh là đất khoa bảng với nhiều bậc khoa bảng, các vị danh nho nổi tiếng về tài thi phú. Làng Vị Hoàng có 4 dòng họ lớn là Trần, Phạm, Vũ, Nguyễn, có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to; tiêu biểu như Tam nguyên Trần Bích San. Năm 1864, ông đỗ đầu liền 3 khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình, được vua Tự Đức khen ngợi: “Nhất cử đăng khoa thiên hạ hữu. Tam nguyên liên trúng quốc triều vô” (Nghĩa là: Một lần đi thi đỗ, thiên hạ thường có. Đỗ đầu liền ngay cả ba khoa thi, trong triều chưa có). Hay nhà nho Vũ Công Độ, đỗ Tiến sỹ năm Minh Mạng thứ 13 được phong chức lĩnh Bố chánh Thái Nguyên; Võ Hoàng Phát, Trần Dương Quang, Trần Doãn Đạt là người có tài trí, đức độ, sau khi đỗ đạt đều là những vị quan thanh liêm, vì dân, vì nước, được người đời kính trọng, nể phục. Đất Vị Hoàng còn nổi tiếng là đất văn chương, thi phú với nhiều tên tuổi lớn như Trần Tế Xương, Vũ Công Tự, Phạm Đức Kế, Nguyễn Hồng Dương, Phạm Ưng Thuần.
Nhắc tới làng cổ trên đất Thành Nam xưa cũng phải kể tới vùng quê được mệnh danh là đất “Nổi Rồng”- đó chính là làng cổ Phụ Long.
Xưa kia, khi vua Minh Mạng chưa cho khai con sông Đào, làng Phù Long trải rộng sang cả đất Vị Khê, Vạn Diệp nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, hoa tươi, cây cảnh chuyên để phục vụ cung Thiên Trường. Các giống hoa được chọn lựa chuyên trồng phải là giống hoa quý, tượng trưng cho nét đẹp sang trọng, quyền uy như: Hải Đường, Dạ Quyên, Thủy Tiên, Ngọc Lan, Tùng La Hán, Bạch Ngọc, Trà Xâm…
Cùng với thời gian, thú chơi hoa, cây cảnh đã vượt ra khỏi cung đình, ăn sâu vào nếp sinh hoạt của “Tứ dân” (sỹ, nông, công, thương), trở thành sản phẩm hàng hóa dùng để trao đổi, mua bán trong các phiên chợ vùng, làng góp phần tạo nên những nét đẹp văn hoá của đất và người Thành Nam. Theo tài liệu để lại, làng Phụ Long gồm có 8 giáp: Đông, Đoài, Bắc, Nhất, Nhị Tam, Tứ, Năm. Sau đó, làng hình thành những vùng khác như Quán Chuột, Vườn Dâu, Cồn Chuối, Cồn Vịt. Nếu như đất và người Vị Hoàng trọng “Tước” thì nếp sống của cộng đồng cư dân làng “Nổi Rồng” lại trọng “Xỉ”. Điều này được thể hiện cụ thể ở tục Yến lão, lễ mừng thọ trong mỗi dịp tân xuân với mục đích, ý nghĩa nhằm tỏ đạo “Uống nước nhớ nguồn” đối với người cao tuổi.
Khi thực dân Pháp xâm lược, cũng như các miền quê khác, làng cổ đất Thành Nam dần dần bị “đô thị hóa,” mọc lên nhiều xí nghiệp, nhà máy, công sở, nhưng nhân dân bị áp bức, sống cảnh đời thợ làm thuê cơ cực. Dưới chế độ thực dân, phong kiến, với dã tâm cướp nước, kẻ thù đã thực hiện nhiều chính sách mị dân tiêu cực. Đây là nguyên nhân làm mất dần đi vẻ đẹp và các phong tục truyền thống cũng như giá trị văn hóa cổ truyền của các làng quê.
Nét tài hoa người Thành Nam
Nằm giữa hạ lưu 2 con sông lớn của đồng bằng Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy, Thành Nam xưa vốn là một trung tâm thương nghiệp, có nền thủ công mỹ nghệ đa dạng, các phố phường nổi tiếng với nghề thủ công nghiệp, buôn bán sôi động chẳng kém Thăng Long, phố Hiến. Nhiều con phố được đặt tên theo các phường nghề, cho thấy sự phát triển về kinh tế, xã hội, xứng với vị thế trung tâm của vùng Nam đồng bằng sông Hồng.
Trải qua 750 năm hình thành và phát triển, Thành Nam thực sự là nơi “đất lành chim đậu," quy tụ cư dân từ các miền về sinh sống, lập nghiệp. Các dòng họ ở mọi miền về đây mang theo những nghề truyền thống độc đáo kết tạo nên những sản phẩm thủ công mỹ nghệ đa dạng, phong phú. Do đó, Thành Nam xưa được mệnh danh là “kẻ chợ”, cộng đồng dân cư sinh sống và lập nghiệp theo phương cách “buôn có bạn, bán có phường”, hình thành nên hai loại phố cơ bản: những đường phố chuyên buôn bán, hoạt động thương mại và phố có nghề thủ công truyền thống.
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của mỗi làng nghề ở đây không chỉ đơn thuần là sản phẩm tiêu dùng, phục vụ đời sống dân sinh, mà còn là những sản phẩm mang ý nghĩa văn hoá độc đáo, là kết quả từ quá trình lao động, sáng tạo từ bàn tay, khối óc mang đậm dấu ấn tinh hoa và môi trường văn hoá của đất và người Thành Nam từ bao đời. Những chủ nhân của các sản phẩm độc đáo ấy không chỉ là người gốc Thiên Trường, mà còn là sự hợp tụ của những người thợ tài hoa trên khắp các vùng miền và cả trấn Sơn Nam Hạ tìm về đây sinh sống, lập nghiệp, hành nghề. Phố Hàng Cấp xưa là nơi chuyên nghề dệt cấp - một thứ lụa quý dệt bằng tơ nõn, dệt lĩnh, the, gấm.
Những người thợ vừa quay tơ, vừa dệt vốn gốc làng Đại Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Phúc (Hà Tây cũ). Còn phố Hàng Tiện, thời thịnh vượng có hơn 40 hộ thuộc 9 dòng họ làm nghề tiện có tay nghề giỏi về mộc, chạm khắc từ làng Chôm (Hà Tây cũ) và những người thợ gốc La Xuyên, Cát Đằng xưa là đất Vọng Doanh (Ý Yên). Phố Hàng Khay nổi tiếng với mặt hàng sập gụ, tủ chè, tủ ba buồng bằng gỗ gụ, gỗ trắc, gỗ mun quý giá. Qua chợ Rồng là đến phố nghề Hàng Nón, Mải Màn, Hàng Thiếc, Hàng Đàn, Hàng Giầy. Các hộ dân ở con phố Mải Màn là dân làng Dịch Diệp (Trực Ninh), làng Thịnh, Mỹ Hưng (Mỹ Lộc), làng Hoa Chiểu, Tiên Lữ (Hưng Yên).
Ngoài các sản phẩm chăn, màn, họ còn sản xuất các loại khăn xếp bằng lượt, nhiễu. Bên cạnh Hàng Sắt là phố Hàng Đàn, ban đầu chỉ bán các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, đàn bầu, nhị, sáo. Sau đó, những người thợ từ làng Cao Đà, Lý Nhân (Hà Nam) nổi tiếng với nghề làm đình đến sinh sống, làm ra các mặt hàng nổi tiếng: ngai, bài vị, hương án, cuốn thư, hoành phi, câu đối. Phố Hàng Mành chủ yếu là người làng Đỗ Xá (Nam Trực), sau khi học nghề từ quê Giới Tế, Yên Phong (Hà Bắc cũ) về đây định cư, làm nghề. Ngoài ra, không thể kể đến các sản phẩm dệt may, tơ tằm Nam Định đã trở thành thương hiệu nổi tiếng trong nước và nước ngoài.
Bên cạnh những phố nghề thủ công, Thành Nam xưa là trung tâm thương mại, buôn bán giao thương sầm uất, nhất là vào thế XIX, sau khi vua Minh Mạng cho đào con sông nối liền giữa sông Hồng và sông Đáy. Bên cạnh những phố buôn bán, Thành Nam xưa còn có các khu chợ “đầu mối”, là nơi giao thương nổi tiếng, thu hút các thương lái giỏi giang từ các các tỉnh trong cả nước. Chợ Rồng ra đời dưới thời vua Tự Đức, năm 1890, chợ được tu sửa, mở rộng và được coi là trung tâm thương mại lớn thứ hai khu vực Bắc Kỳ (sau chợ Đồng Xuân, Hà Nội). Ngoài ra, Thành Nam còn có chợ Đò Chè, chợ Vị Hoàng, chợ Cửa Trường, chợ Năng Tĩnh có đặc thù riêng về mặt hàng, sản phẩm và kiến trúc.
Hơn 750 năm đã đi qua với biết bao thăng trầm của lịch sử. Thành Nam hôm nay đang từng bước đi lên, phát triển không ngừng. Những giá trị văn hoá truyền thống lâu đời vẫn đang được người dân nơi đây lưu giữ để truyền lại cho các thế hệ con cháu mai sau. Nơi đây, vẫn còn những con phố tường mái rêu phong, những tên làng, tên phố đã đi vào sử sách, đồng hành cùng với thời gian như: Bến Ngự, Hàng Tiện, Hàng Đồng, Bến Thóc, Hàng Sắt, Máy Dệt, Máy Tơ, Cột cờ, Chùa Vọng Cung… Đây chính là những nét đẹp, những dấu ấn không thể phai mờ về mảnh đất có bề dày lịch sử hàng trăm năm văn hiến./.
Thanh Dung (TTXVN)