Trong tuần qua, số liệu từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy, giá lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung tăng, song giá gạo lại giảm nhẹ.
Giá lúa thường tại ruộng cao nhất là 5.750 đồng/kg, giá bình quân là 5.600 đồng/kg, tăng 89 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho cao nhất 7.150 đồng/kg, trung bình là 6.617 đồng/kg, tăng 67 đồng/kg.
Tuy nhiên, giá các mặt hàng gạo lại có sự giảm nhẹ. Theo đó, giá gạo 5% tấm có giá cao nhất 9.450 đồng/kg, giá bình quân 9.186 đồng/kg, giảm 7 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 9.250 đồng/kg, giá bình quân 8.950 đồng/kg, giảm 17 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.050 đồng/kg, giá bình quân 8.717 đồng/kg, giảm 17 đồng/kg. Gạo xát trắng loại 1 có giá trung bình là 9.567 đồng/kg, giảm 17 đồng/kg.
Trong khi đó, giá cám cũng tăng mạnh, trung bình là 8.671 đồng/kg và cao nhất là 9.100 đồng/kg tăng 107 đồng/kg.
Tại Cần Thơ, giá lúa vẫn có sự ổn định, như lúa Jasmine ở mức 7.100 đồng/kg, OM 4218 là 6.700 đồng/kg; riêng IR 50404 là 6.400 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg.
Tại Sóc Trăng, một số loại lúa giá vẫn giữ ổn định như: ST 24 có giá là 8.500 đồng/kg, Đài thơm 8 là 6.900 đồng/kg; riêng OM 5451 là 6.800 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg.
Riêng tại Hậu Giang giá lúa có sự tăng/giảm tùy loại so với tuần trước như IR 50404 là 6.300 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; OM 18 là 6.900 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg, còn RVT là 8.200 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, một số loại lúa có sự tăng giá như: Nàng Hoa 9 từ 5.900-6.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; Đài thơm 8 từ 5.800-6.000 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; còn lại nhiều loại lúa có giá vẫn ổn định so với tuần trước như: OM 5451 từ 5.600-5.700 đồng/kg; OM 18 từ 5.800-5.900 đồng/kg. IR 50404 ở mức từ 5.500-5.650 đồng/kg.
Về giá các loại gạo ở An Giang cũng không có sự biến động: Hương lài 19.000 đồng/kg, Sóc Thái 18.000 đồng/kg, gạo Nàng Nhen 20.000 đồng/kg, Nàng Hoa 17.500 đồng/kg, gạo trắng thông dụng 14.000 đồng/kg, gạo thơm thái hạt dài 18.000-19.000 đồng/kg; Jasmine từ 15.000-16.000 đồng/kg; gạo thường 11.500-12.500 đồng/kg.
Vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu năm 2022 ở tỉnh Đồng Tháp cho năng suất bình quân ước đạt 73,33 tạ/ha, tăng 0,14 tạ/ha so với cùng kỳ, cao hơn vụ Đông Xuân 2018-2019 hơn 2 tạ/ha; lợi nhuận vụ lúa Đông Xuân từ 20-22 triệu đồng/ha, giảm hơn 10 triệu đồng/ha so với năm 2021.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp, do giá nguyên liệu đầu vào tăng như: phân bón tăng từ 64-150%, thuốc bảo vệ thực vật tăng từ 40-60% so với cùng kỳ, chi phí vận chuyển, chi phí thu hoạch... tăng lên dẫn đến tổng chi phí sản xuất tăng thêm 23-50%, giá thành sản xuất tăng bình quân 829 đồng/kg, giá bán bình quân giảm 760 đồng/kg, nên lợi nhuận giảm hơn 10 triệu đồng/ha so cùng kỳ.
[Thị trường nông sản tuần qua: Giá lúa giảm ở một số địa phương]
Chính vì vậy Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp hướng đến sản xuất lúa hữu cơ. Tỉnh Đồng Tháp đang phát triển mạnh lúa hữu cơ ở các huyện Hồng Ngự, Tam Nông, Tháp Mười... thúc đẩy cho bà con nông dân nhân rộng mô hình.
Ngoài biện pháp sử dụng phân hữu cơ bón cho lúa để giảm chi phí, vụ lúa Thu Đông, tỉnh Đồng Tháp sử dụng biện pháp xả lũ hơn 88 ngàn ha, trên 510 ô bao để lấy phù sa.
Về xuất khẩu, giá gạo 5% tấm của Việt Nam cũng không đổi và giữ ở mức từ 420-425 USD/tấn. Một thương lái tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết nhu cầu gạo đang tăng lên khi các quốc gia tăng cường thu mua gạo giữa những lo ngại về khả năng giá lương thực toàn cầu sẽ tiếp tục tăng.
Theo thương lái này, giá lúa trong nước đang tăng nhẹ so với một tuần trước và có thể gây sức ép lên giá gạo xuất khẩu trong những tuần tới.
Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan đã đi xuống trong tuần qua do nhu cầu và đồng nội tệ đều giảm, trong khi các thương nhân ở Bangladesh chờ đợi nguồn cung từ nước láng giềng Ấn Độ sau khi mưa lớn ảnh hưởng đến mùa màng.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan giảm xuống từ 430-440 USD/tấn so với mức từ 450-460 USD/tấn trong tuần trước. Một nhà giao dịch tại Bangkok cho biết giá gạo giảm do đồng baht yếu đi. Đồng baht đã rơi xuống mức thấp nhất trong hơn 5 năm trong tuần này, khiến giá gạo xuất khẩu thấp hơn khi tính theo USD.
Bên cạnh đó, giá mặt hàng này cũng chịu tác động do nhu cầu giảm. Theo một nhà giao dịch khác, nguồn cung gạo vẫn dồi dào với các vụ mùa mới dự kiến bắt đầu vào cuối tháng tới.
Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp Bangladesh, lũ lụt đã cuốn trôi cây trồng, vốn có thể cho sản lượng gần 300.000 tấn gạo. Do đối mặt với thiên tai thường xuyên trong những năm gần đây, Bangladesh đã chuyển vai trò từ nhà sản xuất gạo lớn thành quốc gia nhập khẩu gạo.
Tuần trước, Bộ trưởng Lương thực cho biết Bangladesh sẽ cho phép các đơn vị tư nhân nhập khẩu gạo. Phần lớn lượng gạo nhập khẩu sẽ đến từ Ấn Độ bằng đường bộ do giá cả cạnh tranh.
Ngoài ra, giá của loại gạo 5% tấm của Ấn Độ tuần này vẫn giữ nguyên ở mức từ 357-362 USD/tấn. Một nhà xuất khẩu tại Kakinada, Andhra Pradesh, cho biết các nhà xuất khẩu Ấn Độ không tăng giá bán gạo giữa bối cảnh việc đồng rupee giảm xuống mức thấp kỷ lục đang làm tăng tỷ suất lợi nhuận của họ. Lệnh cấm xuất khẩu lúa mì của Ấn Độ đã khiến các nhà kinh doanh gạo tăng cường hoạt động thu mua.
Về thị trường nông sản Mỹ, trong phiên giao dịch ngày 17/6, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago (Mỹ, CBOT) đồng loạt đi xuống, dẫn đầu là lúa mỳ.
Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 12/2022 giảm 4 xu (0,54%) xuống 7,31 USD/bushel. Giá lúa mì giao tháng 7/2022 giảm 44 xu (4,08%) xuống 10,3425 USD/bushel. Còn giá đậu tương giao tháng 7/2022 giảm 7,5 xu, tương đương 0,44% xuống 17,02 USD/bushel (1 bushel lúa mì/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Giá lúa mỳ đi xuống giữa bối cảnh nông dân Mỹ đang trong vụ thu hoạch. Theo các nhà quan sát, đà giảm mạnh của giá dầu thô, trước thông tin Chính phủ Mỹ cân nhắc áp dụng chính sách giới hạn xuất khẩu nhiên liệu để kiềm chế đà tăng giá trong nước, đã khiến giá ngũ cốc tại Mỹ sụt giảm.
Thị trường càphê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá càphê Robusta trên sàn ICE Europe-London đảo chiều sụt giảm. Giá mặt hàng này giao tháng 7/2022 giảm 26 USD, xuống 2.065 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9/2022 giảm 23 USD xuống 2.079 USD/tấn, các mức giảm rất đáng kể. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.
Tương tự, giá càphê Arabica trên sàn ICE US - New York cùng xu hướng giảm, với kỳ hạn giao tháng 7/2022 giảm 4,30 xu xuống 227,65 xu/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 4,40 xu, xuống 227,40 xu/lb, các mức giảm khá mạnh (1lb=0,45 kg).
Giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm từ 300 – 400 đồng, xuống dao dộng trong khung từ 40.700-41.300 đồng/kg.
Giá càphê hai sàn kỳ hạn đảo chiều sụt giảm trong sự biến động chung của thị trường tài chính toàn cầu sau việc điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản tiền tệ của nhiều nền kinh tế lớn, buộc các giới đầu cơ phải xem xét lại vị thế trên các thị trường hàng hóa phái sinh.
Theo các nhà quan sát, hầu hết các thị trường đang có lo ngại lạm phát vượt mức trên thế giới có thể khiến lãi suất cơ bản tiền tệ tăng mạnh hơn, có thể dẫn đến suy thoái toàn cầu, trong khi dịch COVID-19 vẫn chưa được khống chế triệt để và xung đột tại Đông Âu vẫn còn kéo dài./.