Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trong tuần qua (từ ngày 13-17/12), giá lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long vẫn duy trì ổn định nhưng giá gạo có sự giảm nhẹ.
Cụ thể, lúa thường tại ruộng cao nhất là 5.400 đồng/kg, giá bình quân là 5.108 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho cao nhất 6.650 đồng/kg, trung bình là 6.130 đồng/kg.
Trong khi đó, giá các mặt hàng gạo lại giảm nhẹ. Giá gạo 5% tấm có giá cao nhất 9.450 đồng/kg, giá bình quân 8.800 đồng/kg, giảm 150 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 9.250 đồng/kg, giá bình quân 8.617 đồng/kg, giảm 133 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.050 đồng/kg, giá bình quân 8.350 đồng/kg, giảm 133 đồng/kg.
Gạo xát trắng loại 1 có giá trung bình là 9.350 đồng/kg, giảm 219 đồng/kg. Nhưng gạo lứt loại 1 có giá trung bình là 8.380 đồng/kg, tăng 143 đồng/kg.
Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy, giá lúa tuần qua không có biến động. Tại thành phố Cần Thơ, giá lúa duy trì ổn định như: Jasmine là 6.700 đồng/kg, IR50404 là 5.700 đồng/kg…
Tại Sóc Trăng, giá lúa vẫn giữ nguyên so với tuần trước như: Đài thơm 8 là 7.500 đồng/kg, ST24 là 8.250 đồng/kg; OM4900 là 7.500 đồng/kg; OM6976 là 6.650 đồng/kg…
Tại Hậu Giang, giá lúa Đài thơm 8 là 7.100 đồng/kg; OM5451 ở mức 6.500 đồng/kg; riêng IR50404 là 6.200 đồng/kg, tăng 200 đòng/kg so với tuần trước.
Tại Bến Tre, lúa IR50404 ổn định ở mức 6.400 đồng/kg; còn OM6976 ở mức 6.500 đồng/kg.
Thị trường An Giang cũng cho thấy giá lúa, gạo ổn định. Cụ thể, nếp vỏ khô 6.600-6.900 đồng/kg; lúa OM5451 từ 5.700-5.800 đồng/kg; OM380 từ 5.400-5.600 đồng/kg; OM18 từ 6.050-6.200 đồng/kg; riêng Đài thơm 8 là 6.100-6.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Về giá gạo: gạo Hương lài 19.000 đồng/kg; gạo sóc thường 14.000 đồng/kg; gạo sóc Thái 18.000 đồng/kg; gạo nàng nhen 20.000 đồng/kg; gạo thường 11.000-11.500 đồng/kg, giảm 500 đồng/kg; nếp 13.000-14.000 đồng/kg…
Tại Đồng Tháp, nông dân đã thu hoạch hơn 103 nghìn ha lúa Thu Đông, đạt trên 85% diện tích xuống giống, năng suất bình quân 5,75 tấn/ha, sản lượng gần 600 nghìn tấn.
Đặc biệt vụ lúa Thu Đông cuối vụ cho năng suất cao hơn 200 kg/ha so với đầu vụ và bán được giá cao, lúa chất lượng cao bán với giá 6.200 đồng/kg, lúa thường IR 50404 bán tại ruộng giá 5.500 đồng/kg, tăng từ 500-1.000 đồng/kg.
Thành công lớn của vụ lúa Thu Đông của tỉnh là nhờ các hợp tác xã và nông dân liên kết với doanh nghiệp để sử dụng giống lúa chất lượng cao. Hầu hết các hộ trồng lúa được tiếp cận sản xuất theo quy trình canh tác 3 giảm 3 tăng; 1 phải 5 giảm, tưới tiết kiệm nước, bón phân vùi, sử dụng máy cấy, ứng dụng cơ giới hoá trong gieo trồng; tỷ lệ diện tích sạ hàng, sạ thưa chiếm 50%...
[Thị trường nông sản thế giới: Giá gạo Ấn Độ, Việt Nam đều ở mức thấp]
Mới đây, Bộ Công Thương vừa có văn bản gửi các bộ, ngành và địa phương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Thống kê cho thấy, tính đến ngày 25/11, cả nước có 205 thương nhân đã được Bộ Công Thương cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định 107/2018/NĐ-CP. Thế nhưng, theo tổng hợp từ Tổng cục Hải quan, từ tháng 12/2019 đến nay có tới 39 thương nhân có trụ sở tại 16 tỉnh, thành không xuất khẩu gạo. Đây là những trường hợp xem xét thu hồi giấy chứng nhận theo quy định.
Theo Bộ Công Thương, nhiều thương nhân được cấp Giấy chứng nhận nhưng không có thị trường, không có khả năng, năng lực xuất khẩu, cùng với ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên đã không thể xuất khẩu trong gần 2 năm.
Bộ Công Thương cũng cho biết, việc Nghị định 107/2018/NĐ-CP không quy định sức chứa kho chuyên dùng để chứa thóc, gạo và công suất tối thiểu của cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo; dẫn tới không đảm bảo công bằng, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh.
Sau 3 năm thực hiện Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Bộ Công thương nhận thấy đã phát sinh kẽ hở trong ủy thác xuất khẩu.
Vì vậy, Bộ Công Thương đề xuất tới đây chỉ thương nhân được cấp giấy chứng nhận và thực hiện xuất khẩu gạo được nhận ủy thác. Bộ cũng đề xuất bổ sung 2 tiêu chí kho chứa và công suất nhà máy xay xát, chế biến là nhằm mục tiêu chuẩn hóa việc đầu tư cơ sở hạ tầng đầu vào để đảm bảo đồng bộ hóa về năng lực chế biến của ngành.
Giá gạo châu Á
Thị trường giá gạo trong nước bị tác động giảm bởi giá gạo xuất khẩu hiện giảm xuống mức thấp nhất trong hơn ba tháng do nhu cầu suy yếu, trong khi giá gạo tại các nước xuất khẩu lớn khác của châu Á vẫn ổn định trong tuần qua.
Cụ thể, giá gạo 5% tấm của Việt Nam phiên cuối tuần qua giảm xuống còn từ 400-410 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 9/9, so với mức tương ứng từ 410-414 USD/tấn vào tuần trước. Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, nhu cầu gạo đang suy yếu và tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm nay có thể chỉ đạt khoảng 6 triệu tấn, giảm so với dự báo trước đó là 6,2-6,5 triệu tấn.
Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Thái Lan không đổi ở mức từ 385-396 USD/tấn, giữa bối cảnh đồng baht không biến động so với đồng USD. Các thương nhân tại Bangkok cho biết nhu cầu gạo từ các thị trường nước ngoài vẫn trầm lắng vào cuối năm, như họ đã dự kiến.
Còn giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ duy trì ở mức thấp nhất kể từ tháng 12/2016, chịu sức ép từ việc đồng rupee giảm giá khi nhu cầu thấp.
Loại gạo 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 351-356 USD/tấn, không đổi so với tuần trước đó. Bangladesh, vốn là quốc gia sản xuất gạo lớn thứ ba thế giới lại đang nổi lên như một nước nhập khẩu gạo lớn sau khi nguồn dự trữ cạn kiệt do lũ lụt, chủ yếu nhập khẩu từ Ấn Độ thông qua các cảng đất liền. Tuy nhiên, sản lượng gạo của Ấn Độ có thể giảm xuống 35,5 triệu tấn trong niên vụ 2021-2022, giảm 0,8 triệu tấn so với năm trước.
Thị trường nông sản Mỹ
Về thị trường nông sản Mỹ, trong phiên giao dịch cuối tuần 17/12, giá các mặt hàng nông sản tại thị trường Mỹ đều đi lên, dẫn đầu là mặt hàng đậu tương.
Chốt phiên này, tại sàn giao dịch nông sản Chicago (Mỹ) CBOT, giá ngô giao tháng 3/2022 tăng 2 xu Mỹ (0,34%), lên 5,9325 USD/bushel. Trong khi đó, giá lúa mỳ giao tháng 3/2022 tăng 4,5 xu Mỹ (0,58%) lên 7,75 USD/bushel.
Đáng chú ý, giá đậu tương giao tháng 1/2022 dẫn đầu đà tăng của các mặt hàng nông sản trong phiên này, khi tiến 8 xu Mỹ (0,63%), lên 12,8525 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Thời tiết bất lợi ở Nam Mỹ đã giúp tạo điều kiện cho đà lên giá của các mặt hàng nông sản tại Mỹ. CBOT sẽ thêm phí bảo hiểm thời tiết vào giá nếu dự báo trên là chính xác. Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago cho rằng, mức đóng cửa trung bình hàng tuần của giá ngô là trên 5,92 USD/bushel và giá đậu tương là 12,95 USD/bushel sẽ giúp biểu đồ giá nông sản diễn biến theo hướng tích cực.
Bộ Nông nghiệp Mỹ cho hay, Trung Quốc đã mua 133.000 tấn đậu tương Mỹ và bán 33.000 tấn dầu đậu nành cho Ấn Độ. AgResource dự báo rằng, Trung Quốc sẽ tiêu thụ 29-31 triệu tấn đậu tương Mỹ trong giai đoạn 2021-2022.
Thiệt hại từ trận siêu bão diễn ra trên khắp vùng đồng bằng và khu vực Trung Tây nước Mỹ vẫn đang được tính toán. Thời tiết trong 2-3 tuần tới sẽ giúp xác định khả năng "sinh tồn" của một số loại lúa mỳ.
Các khu vực trồng trọt ở phía Nam Brazil và Argentina trong 10 ngày tới sẽ chứng kiến lượng mưa hạn chế. Trong khi đó, miền Bắc Brazil vẫn nhận được lượng mưa đầy đủ. Rủi ro về năng suất cây trồng ở Nam Mỹ đang tăng lên do mưa quá nhiều ở miền Bắc Brazil và hạn hán nặng ở miền Nam Brazil và miền Bắc Argentina.
Thị trường càphê thế giới
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá càphê Robusta trên sàn ICE Europe-London lấy lại đà tăng. Giá càphê Robusta giao ngay tháng 1/2022 tăng 8 USD, lên 2.439 USD/tấn và giá càphê Robusta kỳ hạn giao tháng 3/2022 tăng 34 USD, lên 2.333 USD/tấn. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.
Trái lại, giá càphê Arabica trên sàn ICE US-New York (Mỹ) tiếp tục sụt giảm. Giá càphê Arabica giao tháng 3/2022 giảm 2,10 xu Mỹ, xuống 234,75 xu Mỹ/lb và kỳ hạn giao tháng 5/2022 giảm 2,15 xu Mỹ, còn 234,85 xu Mỹ/lb (1 lb=0,4535 kg). Khối lượng giao dịch rất thấp dưới mức trung bình.
Tại thị trường Việt Nam, giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên tăng từ 200-300 đồng, lên dao dộng trong khoảng 42.500-42.800 đồng/kg. Trong tháng 11/2021, giá xuất khẩu bình quân càphê của Việt Nam ước đạt 2.327 USD/tấn, tăng 6,3% so với tháng 10/2021 và tăng 20,9% so với tháng 11/2020.
Tính chung 11 tháng kể từ đầu năm 2021, giá xuất khẩu bình quân càphê ước đạt 1.931 USD/tấn, tăng 10,7% so với ghi nhận trong cùng kỳ năm 2020. Giá càphê cuối năm nay được dự báo có thể lên 43,5 triệu đồng/tấn.
Báo cáo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ nhận định, xuất khẩu càphê Robusta từ Việt Nam trong niên vụ 2021/2022 sẽ tăng nhẹ so với niên vụ trước đó, có thể do hàng tồn vụ cũ vì dịch COVID-19 và những vấn đề về logistics nên chưa xuất được chứ không phải do sản lượng tăng.
Đồng real của Brazil giảm 0,07 %, xuống ở mức 5,6840 real/USD do là ngày đồng loạt hết hạn hợp đồng quyền chọn trên nhiều thị trường phái sinh và nhiều đồng tiền mới nổi cũng điều chỉnh giảm trong giai đoạn cuối năm, đồng USD củng cố sức mạnh trước mối lo lạm phát toàn cầu và e ngại biến thể Omicron lây lan nhanh chóng.
Giá càphê Arabica tại Mỹ tiếp tục sụt giảm khi có thêm nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới nâng mức lãi suất cơ bản sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố cắt giảm các biện pháp kích thích kinh tế.
Ngân hàng trung ương Anh (BoE) đã công bố sẽ nâng lãi suất cơ bản lên 0,25%/năm và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) xác nhận sẽ giảm tốc độ mua tài sản kể từ năm tới./.