Thị trường nông sản trong tuần qua: Giá lúa Hè Thu ổn định

Tại Cần Thơ, giá lúa tiếp tục duy trì ổn định ở một số như: IR 50404 là 6.800 đồng/kg, Jasmine là 7.600 đồng/kg; tại Kiên Giang, giá lúa đi ngang ở hầu hết các loại như: IR 50404 ở mức 6.500 đồng/kg.
Nông dân thu hoạch lúa. (Ảnh: Dư Toán/TTXVN)

Trong tuần qua, giá lúa các loại ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hầu hết đi ngang. Thị trường lúa Hè Thu ít biến động.

Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy tại Cần Thơ, giá lúa tiếp tục duy trì ổn định ở một số như: IR 50404 là 6.800 đồng/kg, Jasmine là 7.600 đồng/kg; riêng OM 4218 là 7.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.

Tại Kiên Giang, giá lúa đi ngang ở hầu hết các loại như: IR 50404 ở mức 6.500 đồng/kg; OM 5451 là 6.700 đồng/kg; Jasmine là 7.000 đồng/kg.

[ICTA 2023: Góp phần đưa nông sản Việt ra thị trường thế giới]

Giá lúa tại Tiền Giang không có sự thay đổi nhiều như: IR 50404 ở mức 6.600 đồng/kg; OC10 ở mức 6.800 đồng/kg; riêng Jasmine tăng 200 đồng/kg đạt 7.200 đồng/kg;

Giá lúa ST tại Bến Tre vẫn ở mức 7.800 đồng/kg; OM 4900 ở Trà Vinh là 6.800 đồng/kg.

Tại Sóc Trăng, giá lúa cũng không có sự biến động so với tuần trước như Đài thơm 8 là 8.100 đồng/kg, OM 5451 là 7.900 đồng/kg; RVT ổn định ở mức 8.300 đồng/kg.

Riêng giá lúa ở Hậu Giang có sự đi lên, như: IR 50404 là 7.300 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg, OM 18 là 7.800 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; RVT là 8.500 đồng/kg cũng tăng 200 đồng/kg.

Còn tại An Giang, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, hầu hết các loại lúa duy trì ổn đinh. Giá lúa OM 18 đang được thương lái thu mua tại ruộng với 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 từ 6.800-7.000 đồng/kg; OM 5451 từ 6.400-6.500 đồng/kg; Nàng hoa 9 từ  6.600-6.800 đồng/kg; IR 50404 từ 6.200-6.400 đồng/kg.

Giá lúa nếp khô tại An Giang có giá từ 8.200-8.400 đồng/kg; nếp Long An khô từ 8.600 – 8.800 đồng/kg.

Về xuất khẩu, trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên mức cao nhất kể từ cuối tháng 4/2023, trong bối cảnh nguồn cung thấp. Gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 490-495 USD/tấn, cao hơn so với mức từ 485-495 USD/tấn được ghi nhận vào tuần trước.

Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ nguồn cung thấp và các nhà xuất khẩu đang tập trung vào việc hoàn thành các hợp đồng đã ký với khách hàng Indonesia.

Dữ liệu sơ bộ từ Tổng cục Hải quan cho thấy, trong tháng 5/2023, 213.000 tấn gạo đã được bốc dỡ tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh, với phần lớn gạo được chuyển đến Philippines, Indonesia và châu Phi.

Đối thủ cạnh tranh của gạo Việt Nam, gạo 5% tấm của Thái Lan, trong tuần này, được niêm yết ở mức giá 495-500 USD/tấn, thấp hơn một chút so với mức trung bình 500 USD/tấn của tuần trước.

Một nhà giao dịch có trụ sở tại thành phố Bangkok cho biết nhu cầu đang giảm và các thị trường đang chờ thu hoạch vụ tiếp theo để có thêm nguồn cung.

Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm không thay đổi so với mức từ 374-378 USD/tấn của tuần trước. Đồng rupee giảm giá đang làm tăng lợi nhuận của các nhà xuất khẩu Ấn Độ.

Một nhà giao dịch tại Kakinada ở bang Andhra Pradesh cho biết nhu cầu yếu trong vài tuần qua và người mua đang trì hoãn mua hàng.

Về thị trường nông sản Mỹ, kết thúc phiên giao dịch ngày 26/5, giá các mặt hàng nông sản trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đã có sự tăng trưởng ấn tượng.

Khép phiên này, giá ngô giao ngay tháng 7/2023 tăng 14 xu lên 6,05 USD/bushel. Đây là mức giá đóng cửa cao nhất kể từ cuối tháng 4/2023 đối với ngô giao tháng 7/2023. Giá đậu tương tăng 12 xu, lên 13,36 USD/bushel.

Trong khi đó, giá lúa mỳ giao tháng 7/2023 tăng 13 xu, đạt 6,17 xu USD/bushel (1 bushel lúa mì/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

Báo cáo chuyên về thị trường nông nghiệp của Mỹ Brock Report cho biết triển vọng không chắc chắn về thời tiết ở khu vực Trung Tây, với khả năng hạn hán có thể xảy ra, khiến mối lo ngại về sản lượng ngô bắt đầu tăng lên.

Nhà môi giới hàng hóa của công ty CHS Hedging, Ami Heesch, nhận định ngô và đậu tương đang "hưởng lợi" từ những lo ngại về thời tiết khô hạn.

Tương tự, cố vấn thị trường cấp cao của Total Farm Marketing, Naomi Blohm, đánh giá nhân tố thời tiết có thể sẽ là động lực thúc đẩy giao dịch nông sản trong tuần tới.

Về thị trường càphê thế giới, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần này, giá càphê Robusta trên sàn ICE Europe-London trở lại xu hướng tăng.

Giá càphê Robusta giao tháng 7/2023 tăng 21 USD, lên 2.574 USD/tấn và càphê Robusta giao tháng 9/2023 tăng 20 USD, lên 2.528 USD/tấn. Khối lượng giao dịch duy trì dưới mức trung bình.

Trái lại, giá càphê Arabica trên sàn ICE US-New York tiếp nối xu hướng giảm. Giá càphê Arabica giao tháng 7/2023 giảm thêm 1,10 xu, xuống 181,60 xu Mỹ/lb và giá càphê Arabica giao tháng 9/2023 cũng giảm thêm 1,10 xu, còn 179,55 xu Mỹ/lb (1lb = 0,45kg). Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.

Giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây nguyên tăng 400-500 đồng, lên dao động trong khung 60.400-61.100 đồng/kg.

Giá càphê kỳ hạn trở lại xu hướng trái chiều, tăng ở thị trường London (Anh) và giảm ở New York (Mỹ), trong bối cảnh các nhà đầu tư nhận định có khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ mạnh tay trở lại tại phiên họp điều hành chính sách tiền tệ tháng 6/2023.

Công ty môi giới hàng hóa nông sản Pine Agronegocios ở Brazil vừa cập nhật dự báo về sản lượng cà phê Brazil niên vụ 2023/2024.

Sản lượng càphê Brazil sẽ tăng thêm 1,47%, lên mức 55,16 triệu bao, bao gồm 34,87 triệu bao càphê Arabica và 20,29 triệu bao cà phê Conilon Robusta.

Góp phần thúc đẩy giá càphê Arabica tại New York suy yếu trở lại là tỷ giá đồng real tăng 0,93% lên ở mức 1 USD đổi 4,9980 real./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục