Theo Tổng cục thống kê, năm 2012, EU vươn lên vị trí thứ nhất trở thành thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch đạt 20,3 tỷ USD (tăng 22,5% so với năm 2011) và chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Mức tiêu thụ hàng hóa sản xuất tại Việt Nam của EU là 7,7% lớn hơn cả Trung Quốc; đồng thời thặng dư của Việt Nam với EU (11,5 tỷ USD) và Hoa Kỳ (14,9 tỷ USD) đã giúp khắc phục tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài của Việt Nam với Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN.
Điều này cho thấy, Việt Nam có thể giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại bằng cách tăng cường liên kết thương mại với các nền kinh tế có tính bổ trợ như EU mà không phải với các nền kinh tế cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam.
Ông Claudio Dordi, Trưởng nhóm Tư vấn Dự án EU-MUTRAP cho biết, xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là năm mặt hàng (chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu) gồm giày, may mặc, càphê, thủy hải sản và đồ gỗ.
Mức thuế trung bình mà EU áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam là khoảng 4,1%; thuế bình quân (ở mức thương mại) vào khoảng 7%, trong đó mức thuế một số sản phẩm vẫn cao hơn mức trung bình như may mặc (11,7%), thủy hải sản (10,8%), giày (12,4%) và cũng có sản phẩm có mức thuế cao đỉnh điểm hơn 57%.
Về cơ bản, việc bãi bỏ thuế nhập khẩu trong thương mại theo khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do FTA sẽ mang lại những thế mạnh lớn hơn cho Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU và tỷ trọng xuất khẩu sẽ gia tăng; được giảm thuế, hưởng mức giá thấp hơn đối với công nghệ và nguyên vật liệu chất lượng cao từ EU; đồng thời EU sẽ xuất khẩu dịch vụ chất lượng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn trong dài hạn…
EU là thị trường rất lớn với 27 nước thành viên, có khoảng 500 triệu dân; trong đó nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, chiếm 50% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may toàn cầu, dự báo năm 2013 đạt khoảng 234,2 tỷ USD.
Riêng xuất khẩu dệt may Việt Nam vào EU, dự báo đạt khoảng 2,379 tỷ USD (tăng 2,89%, so với năm 2012), các sản phẩm chủ yếu là quần jean, áo sơmi, áo thun, váy, vải…
Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam-EU (EVFTA) được ký kết, ngoài mang lại việc giảm thuế quan từ 11,7% xuống 0%, tạo động lực tăng trưởng cho ngành dệt may, còn tạo cơ hội trong các lĩnh vực nâng cao thương hiệu Việt Nam, thể hiện năng lực thiết kế, chủ động nguyên liệu đầu vào, thêm nhiều hợp đồng gia công.
Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp ngành dệt may, trong quá trình đàm phán, Chính phủ cần chú trọng về quy tắc xuất xứ (tỷ lệ nội địa, hàm lượng giá trị khu vực…); thời hạn cắt giảm thuế quan hai chiều…
Trước những tác động của Hiệp định EVFTA đối với ngành thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VESEP cho rằng các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản ngày càng chi phí lớn hơn trong việc tuân thủ các quy định SPS và bảo tồn nguồn lợi, do đó Hiệp định EVFTA cần giúp ngành thủy sản đạt được các mô hình tạo thuận lợi cho việc tuân thủ quy định SPS (về an toàn thực phẩm và bệnh dịch động-thực vật), cấp giấy chứng nhận và tiếp cận thị trường, đây là một thành phần tích cực khi thực hiện tự do hóa thương mại hơn nữa, cùng với việc cắt giảm thuế truyền thống.
EU là thị trường lớn và đặc biệt quan trọng của thủy sản Việt Nam, việc xóa bỏ thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu sẽ tạo lợi thế cho Việt Nam khi cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường này.
Theo ông Võ Tân Thành, Giám đốc Chi nhánh Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hiệp định EVFTA sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi, thông thoáng hơn, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh, đầu tư trực tiếp từ EU và các nước khác vào Việt Nam.
Với quy mô và tiềm năng của EU, Việt Nam có cơ hội trở thành địa bàn trung chuyển, kết nối hoạt động thương mại, đầu tư của EU tại khu vực ASEAN, thông qua đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
Tuy nhiên, lợi ích phải cân đối nghĩa vụ, Việt Nam phải đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với đa số các dòng thuế, mở cửa thị trường dịch vụ so với cam kết WTO và không loại trừ khả năng phải mở cửa thị trường mua sắm công, nên sức ép cạnh tranh là rất lớn; đồng thời minh bạch hóa, thuận lợi hóa, nhiều quy định trong nước về quản lý kinh doanh, đầu tư phải sửa đổi, hướng đến tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Ông Bùi Huy Sơn, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á-Thái Bình Dương (Bộ Công Thương), Giám đốc Dự án EU–MUTRAP nhận định EU hiện là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam về kinh tế, thương mại và đầu tư.
Hiện tại, Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam–EU (EVFTA) đang chuẩn bị tiến đến phiên đàm phán thứ ba và dự kiến quá trình đàm phán kết thúc vào năm 2014, sẽ tạo ra “cú hích” quan trọng, thúc đẩy cho quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Sự tham gia góp ý, kiến nghị của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề đối với quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA là rất cấp thiết, không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc xây dựng và phương thức đàm phán đạt hiệu quả cao./.
Mức tiêu thụ hàng hóa sản xuất tại Việt Nam của EU là 7,7% lớn hơn cả Trung Quốc; đồng thời thặng dư của Việt Nam với EU (11,5 tỷ USD) và Hoa Kỳ (14,9 tỷ USD) đã giúp khắc phục tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài của Việt Nam với Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN.
Điều này cho thấy, Việt Nam có thể giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại bằng cách tăng cường liên kết thương mại với các nền kinh tế có tính bổ trợ như EU mà không phải với các nền kinh tế cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam.
Ông Claudio Dordi, Trưởng nhóm Tư vấn Dự án EU-MUTRAP cho biết, xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là năm mặt hàng (chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu) gồm giày, may mặc, càphê, thủy hải sản và đồ gỗ.
Mức thuế trung bình mà EU áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam là khoảng 4,1%; thuế bình quân (ở mức thương mại) vào khoảng 7%, trong đó mức thuế một số sản phẩm vẫn cao hơn mức trung bình như may mặc (11,7%), thủy hải sản (10,8%), giày (12,4%) và cũng có sản phẩm có mức thuế cao đỉnh điểm hơn 57%.
Về cơ bản, việc bãi bỏ thuế nhập khẩu trong thương mại theo khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do FTA sẽ mang lại những thế mạnh lớn hơn cho Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU và tỷ trọng xuất khẩu sẽ gia tăng; được giảm thuế, hưởng mức giá thấp hơn đối với công nghệ và nguyên vật liệu chất lượng cao từ EU; đồng thời EU sẽ xuất khẩu dịch vụ chất lượng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn trong dài hạn…
EU là thị trường rất lớn với 27 nước thành viên, có khoảng 500 triệu dân; trong đó nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, chiếm 50% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may toàn cầu, dự báo năm 2013 đạt khoảng 234,2 tỷ USD.
Riêng xuất khẩu dệt may Việt Nam vào EU, dự báo đạt khoảng 2,379 tỷ USD (tăng 2,89%, so với năm 2012), các sản phẩm chủ yếu là quần jean, áo sơmi, áo thun, váy, vải…
Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam-EU (EVFTA) được ký kết, ngoài mang lại việc giảm thuế quan từ 11,7% xuống 0%, tạo động lực tăng trưởng cho ngành dệt may, còn tạo cơ hội trong các lĩnh vực nâng cao thương hiệu Việt Nam, thể hiện năng lực thiết kế, chủ động nguyên liệu đầu vào, thêm nhiều hợp đồng gia công.
Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp ngành dệt may, trong quá trình đàm phán, Chính phủ cần chú trọng về quy tắc xuất xứ (tỷ lệ nội địa, hàm lượng giá trị khu vực…); thời hạn cắt giảm thuế quan hai chiều…
Trước những tác động của Hiệp định EVFTA đối với ngành thủy sản, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VESEP cho rằng các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản ngày càng chi phí lớn hơn trong việc tuân thủ các quy định SPS và bảo tồn nguồn lợi, do đó Hiệp định EVFTA cần giúp ngành thủy sản đạt được các mô hình tạo thuận lợi cho việc tuân thủ quy định SPS (về an toàn thực phẩm và bệnh dịch động-thực vật), cấp giấy chứng nhận và tiếp cận thị trường, đây là một thành phần tích cực khi thực hiện tự do hóa thương mại hơn nữa, cùng với việc cắt giảm thuế truyền thống.
EU là thị trường lớn và đặc biệt quan trọng của thủy sản Việt Nam, việc xóa bỏ thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu sẽ tạo lợi thế cho Việt Nam khi cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường này.
Theo ông Võ Tân Thành, Giám đốc Chi nhánh Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hiệp định EVFTA sẽ góp phần cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi, thông thoáng hơn, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh, đầu tư trực tiếp từ EU và các nước khác vào Việt Nam.
Với quy mô và tiềm năng của EU, Việt Nam có cơ hội trở thành địa bàn trung chuyển, kết nối hoạt động thương mại, đầu tư của EU tại khu vực ASEAN, thông qua đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
Tuy nhiên, lợi ích phải cân đối nghĩa vụ, Việt Nam phải đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với đa số các dòng thuế, mở cửa thị trường dịch vụ so với cam kết WTO và không loại trừ khả năng phải mở cửa thị trường mua sắm công, nên sức ép cạnh tranh là rất lớn; đồng thời minh bạch hóa, thuận lợi hóa, nhiều quy định trong nước về quản lý kinh doanh, đầu tư phải sửa đổi, hướng đến tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Ông Bùi Huy Sơn, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á-Thái Bình Dương (Bộ Công Thương), Giám đốc Dự án EU–MUTRAP nhận định EU hiện là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam về kinh tế, thương mại và đầu tư.
Hiện tại, Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam–EU (EVFTA) đang chuẩn bị tiến đến phiên đàm phán thứ ba và dự kiến quá trình đàm phán kết thúc vào năm 2014, sẽ tạo ra “cú hích” quan trọng, thúc đẩy cho quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Sự tham gia góp ý, kiến nghị của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề đối với quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA là rất cấp thiết, không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc xây dựng và phương thức đàm phán đạt hiệu quả cao./.
Mỹ Phương (TTXVN)