Tạo cơ chế, đảm bảo các chính sách an sinh xã hội cho người lao động

Các đại biểu đánh giá việc tạo cơ chế pháp lý, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động là những vấn đề rất quan trọng, cần được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới.
Đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trình bày tham luận. (Ảnh: TTXVN)

Trong tham luận trình bày tại Đại hội chiều 27/1, các đại biểu đánh giá việc tạo cơ chế pháp lý, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động là những vấn đề rất quan trọng, cần được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới.

Tạo hành lang pháp lý tốt nhất bảo vệ người lao động

Đại diện cho 10,4 triệu đoàn viên Công đoàn Việt Nam phát biểu tham luận tại Đại hội, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang cho biết hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, đồng hành cùng dân tộc, là lực lượng và chỗ dựa tin cậy, trung thành của Đảng.

Các cấp công đoàn Việt Nam thường xuyên đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, tích cực chăm lo xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Các cấp công đoàn đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo, đề xuất và tổ chức các hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho đoàn viên như: “Mái ấm Công đoàn”;  “Tết Sum vầy”, “Tháng Công nhân,” “Ngày hội công nhân - Phiên chợ nghĩa tình,” “Nâng cao chất lượng bữa ăn ca”; “Phúc lợi đoàn viên,” xây dựng các thiết chế công đoàn, tham gia tháo gỡ những vấn đề bức xúc về nhà ở, nhà trẻ, nơi sinh hoạt văn hóa, chăm sóc sức khỏe cho công nhân...

[Cán bộ nữ tham gia cấp ủy ở 3 cấp tăng cả về số lượng lẫn chất lượng]

Giai cấp công nhân Việt Nam đã lớn mạnh về số lượng, trưởng thành về chất lượng; khẳng định, phát huy vai trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Tuy chỉ chiếm khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hằng năm giai cấp công nhân Việt Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, trật tự-an toàn xã hội, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Những năm tới, điều kiện, môi trường hoạt động của tổ chức Công đoàn, sự phát triển của giai cấp công nhân dự báo sẽ có những thay đổi quan trọng.

Xu hướng hội nhập quốc tế mạnh mẽ, nhất là việc nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và phê chuẩn các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế, cho phép ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài tổ chức Công đoàn, trực tiếp thách thức tới vai trò, vị thế của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đặt ra cho cả hệ thống chính trị nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết.

Để “tổ chức Công đoàn Việt Nam mãi mãi xứng đáng là cơ sở chính trị-xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhấn mạnh cần tiếp tục tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động Công đoàn. 

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề nghị Bộ Chính trị sớm thông qua “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới,” làm căn cứ ban hành nghị quyết chuyên đề, toàn diện về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về giai cấp công nhân trong thời kỳ mới;thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công đoàn, giai cấp công nhân, người lao động thành pháp luật; tạo hành lang pháp lý tốt nhất bảo vệ người lao động, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức Công đoàn và giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hỗ trợ phụ nữ tiếp cận chính sách an sinh xã hội

Tham luận tại Đại hội, đồng chí Hà Thị Nga, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Nga cho rằng, đảm bảo cơ hội tiếp cận các vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội một cách công bằng đối với  phụ nữ, nhất là phụ nữ di cư lao động, phụ nữ nông thôn, phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ là vấn đề quan trọng được các cấp Hội rất quan tâm.

Toàn cảnh phiên họp thảo luận về các văn kiện đại hội tại hội trường Trung tâm Hội nghị Quốc gia, chiều 27/1/2021. (Ảnh: TTXVN)

Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đưa ra 4 vấn đề liên quan đến việc đảm bảo an sinh xã hội cho phụ nữ: Nhu cầu về nhà ở đối với lực lượng lao động nữ di cư; an sinh xã hội cho phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ và tạo cơ hội có việc làm cho phụ nữ.

Theo bà Hà Thị Nga, hiện khoảng 80% công nhân đang phải thuê nhà ở trong các khu nhà trọ xung quanh các khu công nghiệp, không đảm bảo các điều kiện tối thiểu về vệ sinh, an toàn và chỉ có 30% phụ nữ trong lực lượng lao động được hưởng chế độ thai sản cũng là một vấn đề cần được quan tâm.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2019, ở khu vực dân tộc, miền núi, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm nhưng vẫn cao hơn 4 lần so với nhóm dân tộc Kinh. Số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong ở khu vực nông thôn cao gấp hơn hai lần ở khu vực thành thị.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã nỗ lực để tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ chủ động nâng cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc bản thân khi mang thai, sinh con, tham gia bảo hiểm y tế và đề xuất chính sách cho phụ nữ.

Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện Nghị định số 39/2014/NĐ-CP hỗ trợ phụ nữ nghèo dân tộc thiểu số sinh con đúng chính sách cho thấy diện được hưởng chưa nhiều. Tính đến tháng 12/2020, chỉ có khoảng gần 74.000 người được thụ hưởng.

Bên cạnh đó, việc gửi con ở đâu vẫn đang là câu chuyện đau đầu không chỉ đối với các gia đình lao động trong khu công nghiệp mà còn là mối lo của rất nhiều gia đình công chức, viên chức ở thành thị.

Theo bà Hà Thị Nga, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước, chiếm trên 50,23% dân số, nhưng việc đảm bảo an sinh xã hội tạo cơ hội có việc làm cho phụ nữ vẫn còn nhiều bất cập.

Hiện còn khoảng 79,5% lao động nữ trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo, bị hạn chế trong tiếp cận dịch vụ an sinh xã hội và áp lực gánh vác các trách nhiệm với gia đình.

Do vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trân trọng đề nghị Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội như việc làm, giáo dục, thai sản, nhà trẻ, nhà ở.

Đặc biệt, cần coi đây là nền tảng phúc lợi, là ưu việt mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại cho mỗi người dân để từng bước quan tâm giải quyết.    

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực phối hợp các bộ, ngành chức năng cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, xây dựng, thực hiện các đề án, chương trình, các chính sách an sinh xã hội liên quan đến phụ nữ, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra "quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội; không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân"./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục