Tại “Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày 7/9 tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường đánh giá, Nghị quyết đã tạo được “bước ngoặt” quan trọng trong nông nghiệp.
Đó là sự nhận thức "đúng và trúng" về vai trò vị thế của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Nông dân đã phát huy vai trò chủ thể, tích cực thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ, tham gia chuỗi giá trị, nhất là trong xây dựng nông thôn mới.
Cùng với sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương đến địa phương và có sự lan tỏa đến các thành phần kinh tế xã hội, tạo ra nguồn lực chung, huy động nguồn lực bằng cơ chế chính sách và hoàn thiện thể chế.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) là một chủ trương lớn đúng đắn, kịp thời và hợp lòng dân của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Trong 10 năm qua, nông nghiệp đã duy trì tăng trưởng và đang chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô, năng suất và chất lượng ngày càng cao... Từ đó, góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân nông thôn, đặc biệt trong các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế.
Giai đoạn 2008-2017 tốc độ tăng trưởng GDP ngành đạt 2,66%/năm, giá trị sản xuất tăng 3,9%/năm.
Trong 5 năm (2013-2017), Đề án tái cơ cấu nông nghiệp đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu và các giải pháp của Nghị quyết. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế, phù hợp nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Từng ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường thuận lợi đã tăng nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng, chất lượng và tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng.
[Nhiều cơ hội hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam và Nhật Bản]
Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu thể hiện rõ kết quả tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như thủy sản, rau, hoa, quả, cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
Nhờ đó, xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng nhanh, tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng, góp phần giảm nhập siêu cho cả nước.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm (2008-2017) đạt 261,28 tỷ USD, tăng bình quân 9,24%/năm. Dự kiến, năm 2018 kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD.
Đến này, đã có 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ một tỷ USD trở lên; nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; xuất khẩu nông sản Việt Nam đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ 15 thế giới.
Về nông dân, việc giảm nghèo tiếp tục đạt được nhiều kết quả mới và đã không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn.
Thông qua phát triển các mô hình sản xuất, hỗ trợ người nghèo, địa phương nghèo đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; chuyển giao khoa học kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống.
Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm nhanh, năm 2017 tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn 8%; tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4%/năm.
Về nông thôn, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn và phát triển đô thị, giai đoạn 2010-2017, xã hội đã huy động được khoảng 1.672.250 tỷ đồng để thực hiện; trong đó, vốn ngân sách Nhà nước chiếm 28,6%, vốn tín dụng chiếm 56,7%, vốn doanh nghiệp chiếm 4,9%, người dân và cộng đồng đóng góp chiếm 15,82%.
Phong trào xây dựng nông thôn mới có sức lan tỏa cao, trở thành phong trào sâu rộng với sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới, văn minh, hiện đại hơn.
Một trong những chuyển biến tích cực là việc đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn; trong đó, chú trọng vào xây dựng các mô hình hợp tác xã kiểu mới, thu hút đầu tư doanh nghiệp.
Nhờ vậy, đến hết năm 2017 cả nước có 11.668 hợp tác xã nông nghiệp (gấp gần 2 lần năm 2008). Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp tăng từ 2.397 năm 2007 (chiếm 1,61% doanh nghiệp cả nước) lên 7.033 doanh nghiệp năm 2017 (tăng 2,93 lần) với số vốn 213.394,9 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đã trở thành nòng cốt của chuỗi giá trị nông sản và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, phát triển thị trường.
Tính đến nay, cả nước đã có 3.478 xã (38,98%) đạt chuẩn nông thôn mới, bình quân đạt 14,26 tiêu chí/xã; có 53 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (so với năm 2010 chưa có xã đạt chuẩn; năm 2013 chưa có huyện đạt chuẩn nông thôn mới).
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lê Quốc Doanh cho rằng, quá trình phát triển nông nghiệp vẫn có nhiều yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc; những yếu kém nội tại mặc dù đã được khắc phục nhiều từ khi thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành, nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế.
Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, công nghệ bảo quản sau thu hoạch chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, chưa tạo được “đột phá” để nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh.
Thị trường tiêu thụ nổi lên là vấn đề bức thiết, khi khả năng tiêu thụ chưa đáp ứng được sức sản xuất lớn và đang tăng của nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm, chất lượng chưa cao...
Chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo (tính cả số qua đào tạo nhưng không có bằng, chứng chỉ) chỉ đạt 34,14%. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp và dịch vụ phát triển chưa đủ mạnh để “hút” khu vực nông nghiệp chuyển dịch nhanh hơn.
Kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập so với yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, cạnh tranh quốc tế và biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, từ những kết quả nền tảng trong quá trình thực hiện Nghị quyết giai đoạn qua đó là sự hội nhập toàn cầu tốt, những tiến bộ khoa học kỹ thuật cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra… là những tiền đề, cơ hội tốt để nông nghiệp, nông thôn, nông dân tiếp tục phát triển trong quá trình công nghiệp hóa.
Bộ trưởng cũng chỉ ra thách thức lớn nhất là phải tổ chức nhanh, hiệu quả nền sản xuất nhỏ quy mô hộ thành liên kết sản xuất lớn vì, nếu không có yếu tố này sẽ không thể thành công. Biến đổi khí hậu cực đoan cùng với sự hội nhập kinh tế sâu rộng nếu không cố gắng, quyết tâm sẽ thua ngay trên sân nhà.
“Cần xác định vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa đất nước.Từ đó thống nhất nhận thức toàn xã hội, các thành phần kinh tế, vai trò người dân được tôn vinh và tự tin khi phát triển kinh tế,” Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Cùng với đó là sự ưu tiên nguồn lực bởi, đây là khu vực yếu thế, dễ tổn thương và nhiều rủi ro. Nguồn lực không chỉ về kinh tế mà bằng sự chỉ đạo, cơ chế, chính sách để khuyến khích nhiều thành phần kinh tế như hợp tác xã, doanh nghiệp… được ra đời để liên kết chặt chẽ với người dân.
Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách như tín dụng… để thu hút nhiều doanh nghiệp hơn và ưu tiên doanh nghiệp vùng miền để cùng liên kết với hợp tác xã, bà con, đưa sự nghiệp nông nghiệp, nông dân, nông thôn ngày càng phát triển./.