Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) do Bộ Tài chính soạn thảo nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao của cộng đồng doanh nghiệp và giới chuyên gia. Bên cạnh đó, các ý kiến cho rằng cơ quan soạn thảo cần có thêm những nghiên cứu định lượng, để các phương án về lộ trình cùng mức tăng thuế hợp lý, nhằm tránh gây sốc cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích nghi với những chính sách mới.
Đây là nội dung chính được nêu ra tại Hội thảo “Sửa thuế để thúc đẩy hoạt động doanh nghiệp,” do báo Đầu tư-Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 14/8.
Giãn thời gian điều chỉnh
Điều 8 tại dự thảo Luật đưa ra lộ trình tăng thuế
Rượu từ 20 độ trở lên và bia: Phương án 1 là từ năm 2026 điều chỉnh thuế suất lên 70 % (tăng 5% so với hiện hành), mỗi năm sau đó tăng 5% và đến năm 2030 là 90%; Phương án 2 là năm 2026 điều chỉnh thuế suất lên 80 % (tăng 15% so với hiện hành), mỗi năm sau đó tăng 5% và đến năm 2030 là 100%.
Rượu dưới 20 độ: Phương án 1 là năm 2026 điều chỉnh thuế suất lên 40 % (5% so với hiện hành), mỗi năm sau đó tăng 5%, đến năm 2030 là 60%; Phương án 2 là năm 2026 điều chỉnh thuế suất lên 50 % (tăng 15% so với hiện hành), mỗi năm sau đó tăng 5% và đến năm 2030 là 70%.
Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam đề xuất cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu kỹ hơn về lộ trình và mức tăng thuế suất đảm bảo hợp lý để doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động sản xuất-kinh doanh và việc làm của người lao động. Bởi, bà Cúc cho rằng chính sách thuế sửa đổi sẽ tác động đến cả một chuỗi cung ứng từ khâu nguyên liệu đến sản xuất, thương mại và khu vực dịch vụ ăn uống, du lịch...
“Phương án tăng thuế là cần thiết song cũng cần tạo điều kiện để ổn định thị trường và giúp doanh nghiệp, người tiêu dùng thích nghi (với việc tăng dần thuế đến năm 2030) và tránh bị sốc do tăng nhanh, đột ngột,” bà Cúc nói.
Với lộ trình như trên, bà Cúc đồng thuận với phương án 1 của dự thảo và kiến nghị thêm nội dung cho phép giãn thời gian điều chỉnh tăng thuế suất 5% từ hàng năm lên tối thiểu là hai năm. Cụ thể, thuế suất đối với rượu từ 20 độ trở lên và bia sẽ điều chỉnh từ năm 2026 ở 65% lên 70 % (tăng 5% so với hiện hành) và năm 2028 lên 75%, năm 2030 lên 80%; Các sản phẩm rượu dưới 20 độ có lộ trình điều chỉnh tại năm 2026 thuế suất từ 35% lên 40 % (tăng 5% so với hiện hành), năm 2028 lên 45% và năm 2030 lên 50%.
Theo bà Cúc, thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế gián thu và được cấu thành trong giá bán sản phẩm. Trên nguyên tắc, việc tăng thuế sẽ đẩy giá bán nhưng về hạn chế tiêu dùng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do đó, bên cạnh việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, cơ quan quản lý cần triển khai nhiều biện pháp khác mới nhằm đảm bảo mục tiêu này. Bà Cúc dẫn chứng việc thực hiện Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ (quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông) đã làm giảm hẳn số lượng người điều hành phương tiện giao thông vi phạm uống rượu bia.
Ngoài ra, bà Cúc cho rằng các cấp chuyên ngành cần tăng cường thêm biện pháp quản lý rượu bia nhập lậu. Đặc biệt là rượu không rõ nguồn gốc, do người dân tự nấu-sản xuất và mua bán bất hợp pháp, không được kiểm soát chất lượng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng. Thậm chí, cơ quan quản lý đã chỉ ra cả các trường hợp pha chế bằng cồn Methanol công nghiệp, điều đó có thể gây độc với các cơ quan nội tạng, hệ thần kinh và thị giác có thể gây chết người.
“Đối với rượu tự nấu cần phải có sự kiểm soát nhằm đảm bảo chất lượng và phải được cấp đăng ký sản xuất kinh doanh, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng…,” bà Cúc nói.
Về nội dung bổ sung nước giải khát có đường vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân do bệnh tật, yếu tố sức khỏe (liên quan đến nước giải khát có đường), bà Cúc cho rằng phải cân nhắc thấu đáo và trường hợp đưa vào diện chịu thuế cần xem xét thêm lượng đường phù hợp, cụ thể là 5g-6g-7g hoặc 8g/100 ml (như của một số nước có đánh thuế).
“Chúng tôi kỳ vọng việc tính toán xác định được chính sách điều tiết thuế tiêu thụ đặc biệt hợp lý trong lần sửa đổi Luật thuế lần này sẽ hướng tới hài hòa hơn mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ổn định sản xuất kinh doanh, công ăn việc làm cho người lao động và đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,” bà Cúc nói.
Phù hợp với bối cảnh nền kinh tế
Đánh giá cao về phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm của Ban soạn thảo, song ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế) cho rằng đến thời điểm này chưa khẳng định chắc chắn về hai phương án trên và cần nghiên cứu thêm về định lượng dựa trên các cơ sở nghiên cứu khoa học, mô hình kinh tế toàn diện. Theo ông, mục đích chính của việc tăng thuế lần này nhằm thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, hướng tới phát triển xanh, sạch và bảo đảm sức khoẻ người dân ổn định lâu dài.
Đại diện của Hiệp hội Bia, rượu, nước giải khát Việt Nam, cho biết các phương án lộ trình tăng thuế được đưa ra trong bối cảnh cộng đồng doanh nghiệp nói chung và ngành đồ uống nói riêng còn khá khó khăn. Trên thực tế, lợi nhuận bình quân toàn ngành liên tục giảm từ năm 2021 đến nay, dẫn tới thu ngân sách toàn ngành giảm bình quân 10%/năm (trong giai đoạn 2020-2023). Trong sáu tháng đầu năm, lượng hàng tồn kho của ngành đã tăng 29% so với cùng kỳ năm trước… Vì vậy, các doanh nghiệp trong ngành cho biết việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với lộ trình nhanh và mạnh theo như dự thảo, có thể tạo ra tình huống “khó chồng khó” đối với doanh nghiệp và người lao động trong ngành và các ngành dịch vụ liên quan.
Đồng tình với những lo ngại trên, ông Bùi Ngọc Tuấn Phó Tổng Giám đốc Tư vấn thuế Deloitte Việt Nam, cho rằng việc triển khai chính sách tăng thuế cần được xem xét kỹ lưỡng từ góc độ kinh tế-xã hội, đặc biệt là khi xét đến những phản hồi từ các doanh nghiệp trong ngành. Trong bối cảnh, tình hình kinh tế còn bất ổn do tác động kéo dài của đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành kinh doanh đồ uống cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Do, sản lượng tiêu thụ giảm, chi phí vận hành tăng cao và chuỗi cung ứng bị gián đoạn đã khiến cho quá trình phục hồi của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc tăng thuế suất tiêu thụ đặc biệt trong giai đoạn này có thể làm trầm trọng thêm tình hình, khiến doanh nghiệp không kịp thích nghi, dẫn tới nguy cơ phá sản hoặc thu hẹp quy mô sản xuất.
Đánh giá tác động đến nền kinh tế, ông Tuấn cho rằng việc tăng thuế có thể làm giảm quy mô sản xuất, dẫn đến lãng phí dây chuyền và thiết bị đã đầu tư, thêm vào đó làm tăng tỷ lệ thất nghiệp do cắt giảm lao động.
“Thực tế, một số quốc gia phát triển và đang phát triển đã ghi nhận tác động tiêu cực khi thuế suất đối với đồ uống có cồn bị vượt điểm tới hạn (như Anh, Australia, Bỉ, Thailand, Malaysia) dẫn tới ngân sách bị hụt thu nghiêm trọng ngay lập tức,” ông Tuấn nói.
Theo ông Tuấn, báo cáo đánh giá tác động từ Ban soạn thảo chưa cung cấp được các số liệu cụ thể và đáng tin cậy để đánh giá toàn diện mức độ ảnh hưởng. Đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực từ việc gia tăng nguồn cung rượu, bia phi chính thức từ nhập lậu, sản xuất không phép. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý trong việc đưa ra các quyết định chiến lược và điều chỉnh cần thiết.
Từ những phân tích nêu trên, ông Tuấn đề xuất Ban soạn thảo phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, Hiệp hội trong việc thực hiện những khảo sát và đánh giá định lượng với số liệu cụ thể về tác động của dự thảo đối với kinh tế-xã hội Việt Nam.
“Việc này không chỉ giúp đưa ra các quyết định chính sách hợp lý hơn mà còn đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong quá trình triển khai chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Ban soạn thảo cân nhắc đề xuất áp dụng mức thuế suất phù hợp, nhằm giảm bớt áp lực tài chính đối với các doanh nghiệp trong ngành trong bối cảnh kinh tế hiện nay còn nhiều thách thức,” ông Tuấn nói.
Bên cạnh đó, ông Tuấn kiến nghị lộ trình tăng thuế cần được giãn cách hợp lý và tiến tới chỉ dừng ở mức thuế suất tối đa là 80%, để doanh nghiệp có đủ thời gian thích nghi và điều chỉnh mô hình kinh doanh phù hợp./.