Dù đã có 801 tác phẩm đồ sộ đã được phát hiện, sưu tầm,hàng chục bộ sử thi được xuất bản, nhưng sử thi của đồng bào các dân tộcthiểu số bản địa Tây Nguyên vẫn đang đứng trước nguy cơ mai một ngaytrên quê hương.
“Di sản” sử thi khổng lồ
Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuấtbản sử thi Tây Nguyên” được thực hiện trong thời gian từ 2001 đến 2008đã sưu tầm được 801 tác phẩm với 5.679 băng ghi âm loại 90 phút. Tổngkinh phí cho toàn bộ dự án là 17,957 tỷ đồng. Sự “bội thu” này đã làmbất ngờ hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước và vượtxa so với chỉ tiêu ban đầu là sưu tầm khoảng 200 tác phẩm văn nghệ dângian (nói chung chứ không riêng gì sử thi).
Đặcbiệt, đã có ít nhất 3 bộ sử thi liên hoàn (còn gọi là sử thi chuỗi, sửthi phổ hệ) rất đồ sộ được phát hiện. Có thể kể đến như các sử thi: ỐtDrông của người M’nông, Dông của người Ba Na và Dăm Diông của người XêĐăng. Mỗi bộ sử thi liên hoàn này gồm khoảng 100 tác phẩm có sự liên kếtkhá hoàn chỉnh và được các chuyên gia đánh giá là những sử thi có độdài nhất của thế giới, sánh ngang với những tác phẩm sử thi hoành trángcủa nước ngoài như Ramayana, Kalêvala….
Một điều thú vị khác, vùng BắcTây Nguyên (chủ yếu là Kon Tum) vốn trước đây bị coi là “vùng trắng” sửthi thì qua điều tra, sưu tầm đã phát hiện ít nhất đã có 2 bộ sử thiliên hoàn của người Ba Na và Xê Đăng được phát hiện.
Vậy là gần một thế kỷ kể từ khi L.Sabatier (nhà nghiên cứu ngườiPháp) công bố sử thi Đam San (Khan Đăm Xăn năm 1927), giới nghiên cứu vàcông chúng rộng rãi chỉ biết sử thi Tây Nguyên như một hiện tượng vănhoá đột xuất với vài cái tên ít ỏi (sau Đam San có Đam Di, Khinh Dú, ĐamĐơroan, Y Ban, Y Bơrao), thì nay với kết quả này đã phát lộ và khẳngđịnh: vùng đất Tây Nguyên đã và đang lưu giữ một kho tàng khổng lồ cáctác phẩm sử thi.
Những nguy cơ hiện hữu
Đến nay đã có 75 bộ sử thi được xuất bản (song ngữ) và 21 bộ sử thikhác sắp sửa được xuất bản. Tuy nhiên, việc làm này cũng mới chỉ dừnglại ở khâu “văn bản hóa” sử thi thành sách rồi… cất kho. Ông Trương Bi,Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắk cũng là nhà nghiêncứu văn hóa Tây Nguyên lâu năm nhìn nhận: “chỉ dăm năm nữa là sử thibiến mất trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên”. Nói một cáchthẳng thắn là sử thi đang đứng trước nguy cơ bị “khai tử.”
Diễn xướng mang tính cộng đồng (hát kể sử thi) là "con đường" để trítuệ dân gian được phổ biến, lưu giữ ký ức văn hóa…, nhưng hiện tại trongsố 368 nghệ nhân biết hát kể sử thi Tây Nguyên đã được lập hồ sơ đềnghị phong tặng danh hiệu “nghệ nhân dân gian” (trong đó có một số ngườiđã được nhận danh hiệu cao quý này) thì hiện nay số người còn sống chỉcòn lại “trên đầu ngón tay.”
Riêng ở Đắk Lắk và Đắk Nông, ông Trương Biđưa ra con số buồn: hiện chỉ còn 5 người biết hát kể sử thi Ê Đê và 2người biết hát kể sử thi M’nông. Tuy nhiên, trong số này cũng chỉ cònlại vài người là còn minh mẫn và sức lực để hát kể sử thi và cũng đangchật vật với cuộc sống “cơm, áo, gạo, tiền.”
Người biết hát kể sử thithì như “lá vàng trên cây,” còn lớp trẻ hiện nay lại đang chạy theo cácthứ văn hóa đương đại: nhạc trẻ, phim ảnh bạo lực, nhạc rap, hiphop… vàquay lưng lại với văn hóa truyền thống.
Việc phiênâm, biên dịch các tác phẩm sử thi vốn là công việc khó khăn, nay lạicàng nan giải hơn bởi những nghệ nhân vừa biết hát kể sử thi, vừa có khảnăng phiên âm, biên dịch chuyển ngữ vốn đã cực kỳ thưa thớt thì nayhầu như không còn ai.
Nghệ nhân Điểu Kâu, người duy nhất vừa biết hátkể, vừa có khả năng phiên âm, biên dịch sử thi M’nông đã qua đời vì bạobệnh mà một phần nguyên nhân là do làm việc đến kiệt sức. Dù trước đó,ông đã được “trưng dụng” cho công việc phiên âm, biên dịch sử thi M’nông365/365 ngày thì phần sử thi M’nông còn lại chưa được biên dịch, chuyểnngữ cũng còn quá nhiều.
Người Ê Đê có câu: “thiếutiếng chiêng, tiếng khan như cuộc sống thiếu cơm, thiếu muối.” Vậy nên,sau mỗi mùa nương rẫy đồng bào Tây Nguyên lại tổ chức lễ hội “mùa ănnăm uống tháng” và đây cũng là dịp để người kể và người nghe sử thi hộingộ. Nhưng hiện không gian hát kể sử thi vốn gắn liền với văn hóa nươngrẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi rất nhanhchóng.
Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởngViện nghiên cứu văn hóa dân gian từng nhận xét trong một cuộc hội thảovề sử thi Tây Nguyên rằng với người dân thiểu số Tây Nguyên, tất cả đềuphải xuất phát từ buôn, làng để rồi trở lại buôn, làng. Phải tôn trọngvăn hoá buôn làng-rừng truyền thống của họ (không phải rừng rú như cóngười vặn vẹo). Phá vỡ thiết chế đó là phát sinh bi kịch - bi kịch vănhóa, bi kịch xã hội.
Với những nguy cơ hiện hữuấy, các nhà nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên nhận định rằng, chỉ dăm nămnữa, muốn tiếp cận sử thi Tây Nguyên chỉ còn cách là vào tìm trong khocủa Viện nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam mà thôi.
Còn ông Trương Bi nêu ra giải pháp cần kíp để cứu sử thi là: tổ chứcnhiều hơn nữa các lớp truyền dạy hát kể sử thi và có chế độ đãi ngộ thỏađáng với các nghệ nhân. Chuyển nội dung các bộ sử thi từ sách qua băng,đĩa phát phát trên các đài truyền thanh cho người đồng bào nghe thườngxuyên.
Thứ nữa, biên tập Sử thi thành các cuốn truyện tranh mỏng songngữ (tiếng Việt và tiếng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên) rồiđưa vào các thư viện trường học, nơi có con em người đồng bào theo học,phát cho người đồng bào. Chuyển sử thi thành phim hoạt hình, phim truyệnrồi công chiếu trên truyền hình, chiếu phục vụ các buôn làng… đồngthời, chọn một số buôn còn các nghệ nhân để phục hồi sinh hoạt hát kể sửthi. Ngoài ra, cần đưa sử thi vào các cuộc liên hoan, dân ca, dân vũ...
Mới đây, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắkđã hoàn tất và gửi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Báo cáo khoa học (tómtắt) “Nghệ thuật truyền khẩu sử thi Đắk Lắk đề nghị đưa vào danh mục disản văn hóa phi vật thể quốc gia.” Trên cơ sở đó, bộ sẽ có kế hoạch choviệc lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận di sản Văn hóa phi vật thể./.
“Di sản” sử thi khổng lồ
Dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuấtbản sử thi Tây Nguyên” được thực hiện trong thời gian từ 2001 đến 2008đã sưu tầm được 801 tác phẩm với 5.679 băng ghi âm loại 90 phút. Tổngkinh phí cho toàn bộ dự án là 17,957 tỷ đồng. Sự “bội thu” này đã làmbất ngờ hầu hết các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước và vượtxa so với chỉ tiêu ban đầu là sưu tầm khoảng 200 tác phẩm văn nghệ dângian (nói chung chứ không riêng gì sử thi).
Đặcbiệt, đã có ít nhất 3 bộ sử thi liên hoàn (còn gọi là sử thi chuỗi, sửthi phổ hệ) rất đồ sộ được phát hiện. Có thể kể đến như các sử thi: ỐtDrông của người M’nông, Dông của người Ba Na và Dăm Diông của người XêĐăng. Mỗi bộ sử thi liên hoàn này gồm khoảng 100 tác phẩm có sự liên kếtkhá hoàn chỉnh và được các chuyên gia đánh giá là những sử thi có độdài nhất của thế giới, sánh ngang với những tác phẩm sử thi hoành trángcủa nước ngoài như Ramayana, Kalêvala….
Một điều thú vị khác, vùng BắcTây Nguyên (chủ yếu là Kon Tum) vốn trước đây bị coi là “vùng trắng” sửthi thì qua điều tra, sưu tầm đã phát hiện ít nhất đã có 2 bộ sử thiliên hoàn của người Ba Na và Xê Đăng được phát hiện.
Vậy là gần một thế kỷ kể từ khi L.Sabatier (nhà nghiên cứu ngườiPháp) công bố sử thi Đam San (Khan Đăm Xăn năm 1927), giới nghiên cứu vàcông chúng rộng rãi chỉ biết sử thi Tây Nguyên như một hiện tượng vănhoá đột xuất với vài cái tên ít ỏi (sau Đam San có Đam Di, Khinh Dú, ĐamĐơroan, Y Ban, Y Bơrao), thì nay với kết quả này đã phát lộ và khẳngđịnh: vùng đất Tây Nguyên đã và đang lưu giữ một kho tàng khổng lồ cáctác phẩm sử thi.
Những nguy cơ hiện hữu
Đến nay đã có 75 bộ sử thi được xuất bản (song ngữ) và 21 bộ sử thikhác sắp sửa được xuất bản. Tuy nhiên, việc làm này cũng mới chỉ dừnglại ở khâu “văn bản hóa” sử thi thành sách rồi… cất kho. Ông Trương Bi,Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắk cũng là nhà nghiêncứu văn hóa Tây Nguyên lâu năm nhìn nhận: “chỉ dăm năm nữa là sử thibiến mất trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên”. Nói một cáchthẳng thắn là sử thi đang đứng trước nguy cơ bị “khai tử.”
Diễn xướng mang tính cộng đồng (hát kể sử thi) là "con đường" để trítuệ dân gian được phổ biến, lưu giữ ký ức văn hóa…, nhưng hiện tại trongsố 368 nghệ nhân biết hát kể sử thi Tây Nguyên đã được lập hồ sơ đềnghị phong tặng danh hiệu “nghệ nhân dân gian” (trong đó có một số ngườiđã được nhận danh hiệu cao quý này) thì hiện nay số người còn sống chỉcòn lại “trên đầu ngón tay.”
Riêng ở Đắk Lắk và Đắk Nông, ông Trương Biđưa ra con số buồn: hiện chỉ còn 5 người biết hát kể sử thi Ê Đê và 2người biết hát kể sử thi M’nông. Tuy nhiên, trong số này cũng chỉ cònlại vài người là còn minh mẫn và sức lực để hát kể sử thi và cũng đangchật vật với cuộc sống “cơm, áo, gạo, tiền.”
Người biết hát kể sử thithì như “lá vàng trên cây,” còn lớp trẻ hiện nay lại đang chạy theo cácthứ văn hóa đương đại: nhạc trẻ, phim ảnh bạo lực, nhạc rap, hiphop… vàquay lưng lại với văn hóa truyền thống.
Việc phiênâm, biên dịch các tác phẩm sử thi vốn là công việc khó khăn, nay lạicàng nan giải hơn bởi những nghệ nhân vừa biết hát kể sử thi, vừa có khảnăng phiên âm, biên dịch chuyển ngữ vốn đã cực kỳ thưa thớt thì nayhầu như không còn ai.
Nghệ nhân Điểu Kâu, người duy nhất vừa biết hátkể, vừa có khả năng phiên âm, biên dịch sử thi M’nông đã qua đời vì bạobệnh mà một phần nguyên nhân là do làm việc đến kiệt sức. Dù trước đó,ông đã được “trưng dụng” cho công việc phiên âm, biên dịch sử thi M’nông365/365 ngày thì phần sử thi M’nông còn lại chưa được biên dịch, chuyểnngữ cũng còn quá nhiều.
Người Ê Đê có câu: “thiếutiếng chiêng, tiếng khan như cuộc sống thiếu cơm, thiếu muối.” Vậy nên,sau mỗi mùa nương rẫy đồng bào Tây Nguyên lại tổ chức lễ hội “mùa ănnăm uống tháng” và đây cũng là dịp để người kể và người nghe sử thi hộingộ. Nhưng hiện không gian hát kể sử thi vốn gắn liền với văn hóa nươngrẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi rất nhanhchóng.
Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởngViện nghiên cứu văn hóa dân gian từng nhận xét trong một cuộc hội thảovề sử thi Tây Nguyên rằng với người dân thiểu số Tây Nguyên, tất cả đềuphải xuất phát từ buôn, làng để rồi trở lại buôn, làng. Phải tôn trọngvăn hoá buôn làng-rừng truyền thống của họ (không phải rừng rú như cóngười vặn vẹo). Phá vỡ thiết chế đó là phát sinh bi kịch - bi kịch vănhóa, bi kịch xã hội.
Với những nguy cơ hiện hữuấy, các nhà nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên nhận định rằng, chỉ dăm nămnữa, muốn tiếp cận sử thi Tây Nguyên chỉ còn cách là vào tìm trong khocủa Viện nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam mà thôi.
Còn ông Trương Bi nêu ra giải pháp cần kíp để cứu sử thi là: tổ chứcnhiều hơn nữa các lớp truyền dạy hát kể sử thi và có chế độ đãi ngộ thỏađáng với các nghệ nhân. Chuyển nội dung các bộ sử thi từ sách qua băng,đĩa phát phát trên các đài truyền thanh cho người đồng bào nghe thườngxuyên.
Thứ nữa, biên tập Sử thi thành các cuốn truyện tranh mỏng songngữ (tiếng Việt và tiếng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên) rồiđưa vào các thư viện trường học, nơi có con em người đồng bào theo học,phát cho người đồng bào. Chuyển sử thi thành phim hoạt hình, phim truyệnrồi công chiếu trên truyền hình, chiếu phục vụ các buôn làng… đồngthời, chọn một số buôn còn các nghệ nhân để phục hồi sinh hoạt hát kể sửthi. Ngoài ra, cần đưa sử thi vào các cuộc liên hoan, dân ca, dân vũ...
Mới đây, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Đắk Lắkđã hoàn tất và gửi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Báo cáo khoa học (tómtắt) “Nghệ thuật truyền khẩu sử thi Đắk Lắk đề nghị đưa vào danh mục disản văn hóa phi vật thể quốc gia.” Trên cơ sở đó, bộ sẽ có kế hoạch choviệc lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận di sản Văn hóa phi vật thể./.
Việt Dũng (TTXVN)