Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sỹ vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đã hạ chuẩn về chất lượng so với quy chế cũ và là một bước thụt lùi, là cơ hội cho các lò tiến sỹ rởm. Đó là nhận định của giáo sư Nguyễn Đình Đức, Trưởng ban Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí về vấn đề này.
Hạ chuẩn chất lượng, quay về 20 năm trước
- Thưa giáo sư, Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành Thông tư số 18 về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ. Giáo sư đánh giá như thế nào về quy chế mới này?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Mặc dù quy chế mới có rất nhiều điểm tiến bộ và đã quy định chi tiết hơn những điều cần phải bổ sung, song nhược điểm lớn nhất lại là chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo. Có thể nói, chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo là giá trị then chốt nhất để quyết định sản phẩm đào tạo sẽ đạt chất lượng như thế nào.
Quy chế mới có một số điểm theo tôi là hạ chuẩn về mặt chuyên môn cũng như ngoại ngữ so với quy chế cũ được ban hành năm 2017.
Thứ nhất, quy chế cũ yêu cầu người học bắt buộc phải có công bố quốc tế, dù chỉ ở mức hoặc một bài trên tạp chí ISI, hoặc hai bài trên tạp chí quốc tế có phản biện, không nhất thiết phải ISI. Tôi cho rằng quy định này là phù hợp vì chúng ta đang nâng chuẩn giáo sư, phó giáo sư, mà tiến sỹ là đầu vào rất quan trọng của đội ngũ này. Tuy nhiên, quy chế mới lại bỏ yêu cầu đó.
Thứ hai là quy chế cũ yêu cầu nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế nên bộ cũng quy định chuẩn về yêu cầu công bố quốc tế của giáo viên hướng dẫn và thành viên hội đồng. Theo quy chế mới, giáo viên hướng dẫn và thành viên hội đồng chỉ cần có các công bố trên các tạp chí trong nước là đủ điều kiện.
Đó là những điểm tôi cho rằng hạ chuẩn về mặt chất lượng.
Chưa kể, quy chế mới còn hạ chuẩn về mặt ngoại ngữ, thể hiện ở ba điểm. Thứ nhất, theo quyết định của Chính phủ về khung ngoại ngữ thì nghiên nghiên cứu sinh phải có trình độ B2. Theo quy đổi của Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, trình độ B2 phải tương đương 72 điểm TOEFL iBT. Tuy nhiên, quy chế mới quy đổi trình độ B2 chỉ tương đương 46 điểm TOEFL iBT.
[Bộ Giáo dục ban hành Quy chế mới về tuyển sinh và đào tạo tiến sỹ]
Thứ hai, quy chế cũ quy định đầu vào ngoại ngữ của nghiên cứu sinh có thể là một trong các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Đức, Trung nhưng nếu có bằng ngoại ngữ là một tiếng khác thì nghiên cứu sinh vẫn phải giao tiếp và trình bày được vấn đề nghiên cứu bằng tiếng Anh. Đó là điểm rất tiến bộ. Thế nhưng, trong quy chế mới đã bỏ yêu cầu này.
Thứ ba là quy chế cũ quy định có bằng thôi chưa đủ, hội đồng có quyền thẩm định trình độ ngoại ngữ của nghiên cứu sinh, chỉ một câu thôi nhưng nội hàm rất lớn. Điều đó có nghĩa là khi có nghi ngờ về bằng cấp thì hội đồng có quyền thẩm định xem nghiên cứu sinh có đạt trình độ B2 hay không. Quy chế mới đã bỏ quy định này.
Với những phân tích trên, tôi cho rằng quy chế mới ban hành có nhiều điểm tiến bộ nhưng rất tiếc là những điểm tiên quyết về chất lượng và chuẩn ngoại ngữ lại bị hạ thấp. Nếu so sánh với quy định cách đây 20 năm thì có thể nói quy định về giảng viên hướng dẫn và chuẩn đầu ra với nghiên cứu sinh không có gì mới. Tôi cho rằng đây là bước thụt lùi của chuẩn quy chế mới ban hành.
Cơ hội cho tiến sỹ rởm
- Có ý kiến cho rằng việc công nhận bài báo khoa học trong nước là động lực để các tạp chí phấn đấu nâng cao chất lượng, tiệm cận quốc tế. Đây cũng là cách để tạo điều kiện cho các nghiên cứu sinh lĩnh vực khoa học xã hội do lĩnh vực này khó có công bố quốc tế hơn. Giáo sư có thể cho biết quan điểm của ông về vấn đề này?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Một số ý kiến cho rằng quy chế mới ban hành khuyến khích các tạp chí trong nước và tránh được nạn mua bán bài quốc tế. Cá nhân tôi cho rằng lập luận như vậy là không có căn cứ, vì không ai dùng giải pháp xóa đi yêu cầu về bài công bố quốc tế để ngăn chặn nạn mua bán bài quốc tế cả.
Thời điểm ban đầu, khi yêu cầu về bài công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh là vấn đề rất cao, có thể đâu đó có hiện tượng tiêu cực, nhưng tôi cho rằng hiện tượng đó không phải là phổ biến. Hơn nữa, nếu chúng ta quy định chuẩn những bài báo quốc tế uy tín cao thì có tiền cũng không thể mua được những bài báo như vậy.
Thứ hai, trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn lâu nay vẫn xì xào về chuyện viết hộ luận án, nếu chúng ta cứ quy định chuẩn bài báo trong nước thì chúng ta có xóa bỏ được nạn viết hộ luận án hay không? Tôi cho rằng việc viết hộ luận án còn nguy hại hơn là việc mua bán bài, vì mua bán bài họ chỉ mua một khúc thôi còn viết hộ luận án là mua bán toàn bộ. Vì thế, lập luận như vậy là không hợp lý.
Thứ ba, cũng có một số ý kiến cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quy định một chuẩn chung còn các trường có thể quy định chuẩn cao hơn. Nghe có vẻ hợp lý nhưng theo tôi đó là lập luận của những người chưa làm công tác quản lý đào tạo. Với kinh nghiệm quản lý đào tạo của tôi, đúng là có trường sẽ cố gắng nâng chuẩn đầu vào cao lên để nâng chất lượng và khẳng định uy tín, nhưng sẽ có những trường chỉ ở mức tối thiểu và người ta sẽ chọn nơi dễ vì bằng tiến sỹ là như nhau khi xét phó giáo sư. Nên lập luận như vậy không có cơ sở thực tiễn.
Chúng ta tưởng rằng một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khó công bố quốc tế và chúng ta giảm nhẹ đi để khoa học xã hội và nhân văn phát triển, nhưng lý luận đó thực ra trái với những gì đang diễn ra. Theo nghiên cứu của tôi thì năm 2017, sau khi có quy chế về đào tạo tiến sỹ với yêu cầu phải công bố quốc tế, đã có rất nhiều nhóm nghiên cứu mới, họ liên kết với nhau để làm sao có bằng được công bố quốc tế. Đó là điều rất tốt. Công bố của nhóm nghiên cứu Phạm Hiệp, nhóm chuyên nghiên cứu về kết quả công bố khoa học của lĩnh vực khoa học xã hội, công bố quốc tế của lĩnh vực khoa học xã hội đã tăng mạnh trong thời gian qua. Giữ vị trí số một về công bố quốc tế ở Việt Nam là lĩnh vực kinh tế chứ không phải là toán, lý, hóa như chúng ta vẫn tưởng.
Nếu công bố tạp chí trong nước thì đó chỉ là trong cộng đồng khoa học của chúng ta mà không hội nhập quốc tế. Hiện khoa học tự nhiên đã hội nhập rồi và khoa học xã hội và nhân văn đang theo chiều hướng tốt. Chúng ta phải hội nhập mạnh hơn nữa, phải đem những nghiên cứu của Việt Nam ra thế giới để quốc tế hiểu hơn về Việt Nam, hiểu hơn về đường lối chính sách cũng như những nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, để không chỉ đóng góp vào chấn hưng nền kinh tế mà còn đóng góp với khoa học thế giới đồng thời đóng góp rất tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia ở khía cạnh nào đó.
Vì thế, nếu chúng ta cổ súy cho tạp chí quốc nội mà giảm công bố quốc tế thì vô hình chung lại càng đẩy lùi xa hơn những lĩnh vực mà chúng ta còn chưa hội nhập so với những chuẩn mực quốc tế. Và như thế sẽ thiệt thòi cho giáo dục đại học Việt Nam và cho vị trí của các ngành khoa học này. Việc cổ súy không công bố quốc tế là một bước đi thụt lùi.
Không khuyến khích giáo dục đại học phát triển
- Vậy việc hạ chuẩn tuyển sinh và đào tạo tiến sỹ như ông phân tích ở trên sẽ dẫn đến những hệ lụy nào, thưa giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Công bố quốc tế là công khai minh bạch kết quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh, là liêm chính học thuật, đánh giá khách quan bởi khi đăng ký một bài trên tạp chí quốc tế được chấp nhận thì họ phản biện ở rất nhiều quốc gia. Và với đất nước như Việt Nam thì việc đăng bài trên tạp chí quốc tế là một tiêu chí để xác định tiến sỹ thật hay rởm. Trong bối cảnh chúng ta đang xóa nạn tiến sỹ rởm, dùng tiêu chí này là một bước đi rất phù hợp.
Tôi cho rằng việc đó là việc cần để nâng chuẩn tiến sỹ. Bỏ yêu cầu công bố quốc tế sẽ tạo nên hiện tượng chúng ta rất khó kiểm soát chất lượng và không tránh được các lò đào tạo ấp tiến sỹ sẽ ra đời hàng loạt, thi nhau đào tạo, người người làm tiến sỹ vì chuẩn đầu ra quá thấp.
[Chuyện thật như đùa ở “lò đào tạo tiến sỹ” Học viện Khoa học Xã hội]
Nói như thế không có nghĩa là tôi xem nhẹ các tạp chí trong nước vì có tạp chí trong nước có chất lượng rất tốt, được vào danh mục ISI. Nhưng dù sao đi chăng nữa, tạp chí trong nước tốt thế nào đi chăng nữa, công bố quốc tế còn có mục đích là để tiến tới sự hội nhập với thế giới. Một nghiên cứu sinh thì phải có kết quả nghiên cứu không chỉ trong cộng đồng khoa học trong nước mà còn quốc tế công nhận. Bên cạnh đó, khi công bố quốc tế thì chúng ta có nội hàm liên quan đến xếp hạng đại học. Nếu không có công bố quốc tế thì thế giới lấy đâu ra nội hàm để xếp hạng đại học và chúng ta sẽ thụt lùi.
Ngoài ra, phải nói rằng tạp chí trong nước, bên cạnh các tạp chí uy tín cũng những tạp chí rất dễ dãi, quy trình phản biện và quy trình đăng rất dễ. Đó là lý do quốc tế ít trích dẫn.
Và điểm cuối cùng, tôi cứ băn khoăn trăn trở mãi, là với quy chế mới này thì liệu sau 5, 10 năm nữa, khi lứa tiến sỹ theo quy chế mới tốt nghiệp, liệu chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam vì tiến sỹ là lực lượng nòng cốt của giáo dục đại học, chất lượng đội ngũ giáo sư và phó giáo sư của chúng ta sẽ như thế nào vì tiến sỹ là đầu vào của đội ngũ này?
Đúng ra quy chế mới phải nâng chuẩn cao, chí ít phải giữ chuẩn như quy chế cũ, nhưng lại hạ chuẩn. Tôi không hiểu lý do của việc hạ chuẩn. Lẽ ra phải có tổng kết, đánh giá rất khách quan về quy chế cũ trước khi ban hành quy chế mới. Với quy chế năm 2017, chúng ta chưa có tổng kết đánh giá, nhưng là người nghiên cứu về các nhóm nghiên cứu, tôi thấy có chuyển biến rất lớn. Nhờ có quy chế về chuẩn tiến sỹ đã khuyến khích nghiên cứu sinh công bố, từ đó đã xây dựng các định hướng nghiên cứu. Những năm trước, các công bố quốc tế của chúng ta rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nhưng hiện Việt Nam của chúng ta đã đứng thứ 49 thế giới về công bố quốc tế theo công bố năm ngoái và đứng thứ ba trong khối ASEAN. Đó là một tín hiệu rất đáng mừng. Nhờ vậy chúng ta mới có các đại học trong bảng xếp hạng QS, THE và những bảng xếp hạng khác.
Tôi cho rằng những lập luận như bạn đã nêu là ngụy biện và nếu chúng ta không có những công bố quốc tế thì chiến lược phát triển giáo dục đại học của chúng ta sẽ bị thụt lùi. Chúng ta không khuyến khích được giáo dục đại học thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng là phát triển giáo dục đại học Việt Nam theo hướng tiên tiến, hiện đại và hội nhập.
- Với hệ lụy lớn như vậy, giáo sư có đề xuất gì với Bộ Giáo dục và Đào tạo?
Giáo sư Nguyễn Đình Đức: Với tất cả những phân tích như trên, đối chiếu với Nghị quyết 13 của Đảng đã nêu ra về yêu cầu phát triển của giáo dục đại học theo hướng tiên tiến, hiện đại và hội nhập, tôi cho rằng quy chế mới chưa đáp ứng được. Vì thế, điều tôi rất thiết tha là lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét để có thể sửa đổi quy chế phù hợp hơn, chuẩn đầu ra không cao hơn thì cũng không được thấp hơn quy chế cũ, phải có quy định chặt chẽ với chuẩn đầu ra của nghiên cứu sinh cũng như quy định chặt chẽ hơn đối với người hướng dẫn.
Xin trân trọng cảm ơn giáo sư về cuộc phỏng vấn này!