Bài 2: Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc
Trong những ngày đầu đón học sinh miền Nam, người dân miền Bắc dù còn nhiều khốn khó nhưng vẫn nhường cơm, sẻ áo, đùm bọc, đón nhận những đứa con của đồng bào, đồng chí miền Nam. Ngược lại, học sinh miền Nam cũng chuyên tâm học tập, rèn luyện, cùng nhân dân miền Bắc khắc phục khó khăn, tiếp sức cho miền Nam đánh giặc.
Trong cuộc trò chuyện cùng phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, nhiều nhân chứng lịch sử xúc động, nghẹn ngào khi nhớ về thời niên thiếu của mình trên đất Bắc, nhớ những kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ, được thầy cô giáo và nhân dân miền Bắc chăm lo cho từng bữa ăn, giấc ngủ.
Nhớ mãi tình thương bao la của Bác
Kể lại những kỷ niệm ở trường học sinh miền Nam, bà Nguyễn Thanh Lịch dường như trẻ lại. Nhìn ánh mắt, nụ cười của bà, tôi bỗng thấy phảng phất hình ảnh cô trò nhỏ lém lỉnh năm nào.
Bà Lịch đã học tại 6 ngôi trường khác nhau, do đó bà cũng có cơ hội được gặp Bác Hồ nhiều hơn các bạn học khác.
Tuổi đã ngoài 80, tâm trí như phủ mây mờ, nhưng bà vẫn nhớ như in một lần Bác đến thăm trường học sinh miền Nam và hỏi: “Các cháu ăn có no không?” Học sinh đồng thanh: “Dạ có, dạ có!” Rồi Bác lại hỏi: “Các cháu có thèm ăn món gì nữa không?” Bà Lịch cùng các bạn của mình lại nhao lên: “Dạ có, dạ có!” rồi thưa Bác là thèm ăn chè, món đồ ngọt quen thuộc với trẻ nhỏ miền Nam.
Bác lặng đi một chút rồi quay sang các cô cấp dưỡng dặn: “Dù còn nhiều khó khăn nhưng các cô chú hãy cố gắng cho các cháu ăn hai bữa chè mỗi tháng nhé, đừng để các cháu thèm, tội lắm.”
Vậy là từ đó trở đi, các cháu học sinh miền Nam được ăn hai bữa chè mỗi tháng, khi thì chè trôi nước, khi thì chè đậu, món ăn giản dị nhưng cũng giúp những tâm hồn non nớt vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương khi phải xa gia đình từ khi còn quá nhỏ.
Nhớ lại kỷ niệm ấy, bà Lịch rưng rưng bảo rằng đó không chỉ là câu chuyện về bát chè mà còn ẩn chứa tình thương yêu bao la của Bác Hồ dành cho học sinh miền Nam.
Từ chủ trương của Bác, đội ngũ giáo viên giảng dạy trong các trường học sinh miền Nam được lựa chọn kỹ càng, đào tạo bài bản, có trình độ và khả năng sư phạm. Đội ngũ này xuất phát từ hai nguồn, hoặc là giáo viên miền Nam tập kết, hoặc thầy cô được đào tạo ở các trường sư phạm miền Bắc, hoặc ở Trung Quốc. Thầy cô cũng phải tạm xa gia đình, cùng ăn cùng ở, vừa giảng dạy vừa thay người thân chăm lo cho học trò miền Nam.
Vậy mới có chuyện những cô giáo đã “làm mẹ từ trước khi làm vợ” bởi họ không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ cho học trò, nào tắm giặt cho các em, lo âu khi các em ốm bệnh, nào chỉ dạy cách may vá, tự lo cho bản thân mình…
Bà Lịch mỉm cười kể cho chúng tôi nghe một kỷ niệm khi bà bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thời thiếu nữ. Một ngày, bà thấy “hiện tượng lạ” bèn kể với các bạn gái trong lớp và bảo rằng “không bị đau mà sao thấy chảy máu, hay mình sắp chết rồi?” Cùng cảnh ngộ, mấy bạn gái ôm nhau khóc, thưa với cô giáo Nguyễn Ngọc Tuyết là tụi con sắp chết rồi, không được về miền Nam nữa.
Cô giáo hỏi rõ sự tình và bật cười, nhưng rồi cô lại khóc vì thương các em gái xa vòng tay mẹ khi còn quá ngây thơ, biết bao nỗi niềm, tâm sự tuổi mới lớn, không được bảo ban tận tình như khi ở bên mẹ.
Vậy là cô trở thành người mẹ, hướng dẫn học sinh nữ cách chăm sóc bản thân, từ đó, các em lại chia sẻ kinh nghiệm với bạn khác.
Suốt những năm tháng ở miền Bắc, tôi đã cảm nhận được rất rõ tình cảm của Bác Hồ, sự quan tâm chăm sóc của các thầy cô giáo và đồng bào miền Bắc, quả đúng là tinh thần ‘tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu’..."
- bà Nguyễn Thanh Lịch.
“Suốt những năm tháng ở miền Bắc, tôi đã cảm nhận được rất rõ tình cảm của Bác Hồ, sự quan tâm chăm sóc của các thầy cô giáo và đồng bào miền Bắc, quả đúng là tinh thần ‘tất cả vì học sinh miền Nam thân yêu’ mà tự trái tim này, chúng tôi biết ơn mãi mãi,” bà Lịch xúc động nói.
Trưởng thành trong vòng tay đồng bào miền Bắc
Sau 9 năm kháng chiến, miền Bắc bị tàn phá, đời sống của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân còn thiếu thốn trăm bề, thế nhưng nhân dân miền Bắc vẫn ưu tiên, chăm sóc cho học sinh miền Nam đầy đủ nhất có thể.
Nhà báo Đức Lượng, nguyên Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân nhớ lại: “Ngày ấy, nhân dân miền Bắc mới được giải phóng, vừa cải cách ruộng đất, vừa khôi phục hòa bình, đời sống còn nhiều khó khăn. Nông dân huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), nơi chúng tôi đặt chân đến còn đang đói. Khoai lang vừa bói củ bằng ngón tay đã phải dỡ lên ăn. Người già ốm đau, trẻ con được bát cháo hoa là điều hiếm lắm.”
Vậy mà học sinh miền Nam luôn được ưu tiên ăn cơm trắng, cá kho để có sức học tập. Giờ nghỉ, học sinh tăng gia sản xuất, nữ được học thêm nữ công, nam được dạy nghề mộc, nghề điện để có thêm kỹ năng trong cuộc sống và quan trọng nhất là không có thời gian rảnh rỗi để nhớ nhà hoặc nghĩ ra các trò nghịch ngợm, quậy phá. Thỉnh thoảng, đội chiếu bóng lưu động còn chiếu phim cho học sinh các trường miền Nam cùng xem, như là một hoạt động ngoại khóa.
Bà Nguyễn Thế Thanh (sinh năm 1953, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, con gái Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Thế Truyện) còn nhớ khoảng thời gian đi sơ tán ở Vĩnh Phúc, ở nhờ nhà người dân trong khoảng một năm. Trong nhà chỉ có hai chiếc chõng tre, chủ nhà nhường chiếc chõng lớn cho hai cô học trò miền Nam là Thanh và Mai, còn hai mẹ con chủ nhà nằm trên chiếc chõng nhỏ.
“Tôi nhớ những năm ấy miền Bắc vừa chi viện cho tiền tuyến lớn, vừa chống chiến tranh phá hoại nên đời sống rất khó khăn. Bà con thường xuyên phải ăn cơm độn khoai, sắn. Một hôm, đi học về tôi thấy có hai bát cơm trắng trong lồng bàn mà không dám ăn. Cô chủ nhà bèn bảo đó là cơm phần cho tôi và bạn Mai. Tôi xúc động nhớ mãi không quên ân tình đó,” bà Thanh kể.
Trong số học sinh miền Nam cũng có những bạn trai nghịch ngợm, đi đào trộm khoai, bắt trộm gà nhưng người dân đều bỏ qua, bởi họ thương những đứa trẻ sớm phải xa quê hương, bởi bố mẹ chúng còn đang chiến đấu nơi chiến trường miền Nam.
“Người miền Bắc lúc đó cũng đói khổ mà vẫn sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho học sinh miền Nam. Nếu không có tình thương tự đáy lòng thì sẽ không có sự bao bọc con em miền Nam như thế và chúng tôi cũng không thể có ngày hôm nay. Bản thân chúng tôi cũng nhớ lời dạy ‘đoàn kết’ của Bác Hồ mà thương yêu nhau không phân biệt Nam-Bắc,” bà Thanh tâm sự.
Bà Trần Tố Nga, nguyên phóng viên Thông tấn xã Giải phóng, cũng có suy nghĩ như vậy. Bà cho hay học sinh miền Nam đã học cách yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, yêu quê hương đất nước, phải sống trung thực, chia sẻ với tập thể, đoàn kết với nhau và đoàn kết với đồng bào miền Bắc.
Bà nói: “Chúng tôi chưa từng giành nhau cái gì mà ngược lại, còn chia nhau từng hạt muối, con cá, những tâm sự vui buồn. Năm tôi học lớp 7, có em lớp 6 khóc hết nước mắt khi nhận tin ba ở miền Nam bị địch bắt. Chúng tôi đến bên, đứa nào cũng khóc theo, xem đó là nỗi đau buồn của mình.”
Có học sinh miền Nam còn lén giấu cơm vào vạt áo để đưa qua hàng rào cho các bạn người miền Bắc cùng trang lứa với mình hoặc dành phần cá kho để mời bà con miền Bắc nhưng đều bị từ chối với lý do: “Các con là học sinh miền Nam ra đây, cần ăn uống đầy đủ để học hành. Không phải lo cho cô bác.”
Với học sinh miền Nam, hai chữ “biết ơn” đồng bào miền Bắc được họ ghi lại nhiều lần trong nhật ký, in sâu trong trái tim họ suốt nhiều năm và giờ đây, những mái đầu bạc vẫn không nén được sự xúc động khi nhắc đến hai chữ này./.
Xem toàn bộ loạt bài tại đây:
Bài 1: Cuộc dịch chuyển lịch sử của 32.000 học sinh miền Nam ra đất Bắc
Bài 2: Những cánh chim phương Nam trưởng thành trong tổ ấm đất Bắc
Bài 3: Từ ‘vườn ươm’ của Bác, những ‘hạt giống đỏ’ vươn mình phụng sự Tổ quốc
Bài 4: Bài học về công tác đào tạo cán bộ nhìn từ chiến lược giáo dục thời đại Hồ Chí Minh