Những nguy cơ biến chứng trong thai kỳ do dịch COVID-19

Theo nghiên cứu về thai kỳ và COVID-19, những trường hợp sinh non, thai chết lưu và tử vong ở trẻ sơ sinh phổ biến hơn ở những phụ nữ nhiễm virus SARS-CoV-2 trước ngày dự sinh tối đa 28 ngày.
Những nguy cơ biến chứng trong thai kỳ do dịch COVID-19 ảnh 1Ảnh minh họa. (Nguồn: Adobe Stock)

Thai phụ mắc COVID-19 cho tới cuối thai kỳ dễ bị các biến chứng liên quan đến sinh nở, với khả năng xuất hiện biến chứng cao hơn ở người chưa tiêm chủng trong giai đoạn đầu thai kỳ hoặc chưa từng nhiễm COVID-19. 

Theo nghiên cứu quốc gia đầu tiên về thai kỳ và COVID-19 do Scotland thực hiện được đăng trên tạp chí Nature Medicine, những trường hợp sinh non, thai chết lưu và tử vong ở trẻ sơ sinh phổ biến hơn ở những phụ nữ nhiễm virus SARS-CoV-2 trước ngày dự sinh tối đa 28 ngày.

Phần lớn các biến chứng, bao gồm cả việc nhập viện điều trị liên quan đến COVID-19, xảy ra ở những phụ nữ chưa được tiêm chủng.

Các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải làm nhiều hơn nữa để nâng cao tỷ lệ tiêm vaccine ngừa COVID-19 ở phụ nữ mang thai, những người có tỷ lệ tiêm chủng thấp hơn nhiều so với phụ nữ nói chung.

Để đi đến kết luận này, nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu liên quan đến tất cả sản phụ ở Scotland (Anh), bao gồm hơn 87.000 phụ nữ mang thai trong khoảng thời gian từ khi chương trình tiêm vaccine ngừa COVID-19 được triển khai vào tháng 12/2020 đến tháng 10/2021.

Tỷ lệ tiêm vaccine trong thời gian nghiên cứu ở thai phụ thấp hơn so với phụ nữ từ 18 đến 44 tuổi nói chung.

[Các nguy cơ tiềm ẩn đối với phụ nữ mang thai mắc COVID-19]

Khoảng 32% sản phụ sinh con vào tháng 10/2021 đã được tiêm chủng đủ liều cơ bản trước đó hơn 14 ngày, so với tỷ lệ ở dân số nữ từ 18 đến 44 tuổi nói chung là 77%. 

Kể từ khi Scotland triển khai chương trình tiêm chủng, đã có 4.950 thai phụ mắc COVID-19, trong đó những người chưa tiêm chủng chiếm 77%. Khoảng 12% số ca mắc COVID-19 nằm trong nhóm thai phụ đã tiêm 1 mũi vaccine hoặc được chẩn đoán bị mắc chưa đầy 14 ngày kể từ thời điểm tiêm mũi thứ 2. Trong khi đó, con số này ở phụ nữ được tiêm chủng đủ liều cơ bản là 11%.

Nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu về tử vong chu sinh kéo dài, chỉ hiện tượng thai nhi tử vong trong bụng mẹ sau 24 tuần của thai kỳ hoặc trong 28 ngày đầu tiên sau khi chào đời. Họ phát hiện rằng tỷ lệ tử vong chu sinh kéo dài ở trẻ sơ sinh trong vòng 28 ngày kể từ khi mẹ mắc COVID-19 là 23/1.000 bé.

Tất cả các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh đều xảy ra đối với những phụ nữ chưa tiêm vaccine ngừa COVID-19 tại thời điểm nhiễm bệnh. Khoảng 17% trẻ sinh non trong vòng 28 ngày kể từ khi mẹ mắc COVID-19 - hơn ba tuần trước ngày dự sinh.

Những dữ liệu này sau đó được so sánh với tỷ lệ cơ bản của tử vong chu sinh kéo dài và sinh non trong tổng số trẻ sinh ra ở Scotland dù người mẹ đã tiêm hoặc chưa tiêm vaccine ngừa COVID-19. Tỷ lệ tử vong chu sinh cơ bản trong thời kỳ đại dịch ở Scotland là 6/1.000 bé và tỷ lệ sinh non là 8%.

Tuy nhiên, các chuyên gia nhấn mạnh rằng không thể khẳng định COVID-19 có trực tiếp dẫn đến các ca tử vong hoặc sinh non hay không do không có quyền truy cập vào hồ sơ lâm sàng chi tiết cho từng phụ nữ.

Tỷ lệ nhập viện và cấp cứu cũng phổ biến hơn đáng kể ở những thai phục mắc COVID-19 chưa được tiêm chủng tại thời điểm chẩn đoán so với những thai phụ đã được tiêm chủng, với 98% thai phụ mắc COVID-19 được điều trị tích cực là chưa được tiêm vaccine.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng theo dõi tỷ lệ biến chứng ở những thai phụ đã được tiêm vaccine ngừa COVID-19. Tỷ lệ tử vong chu sinh và tỷ lệ sinh non ở thai phụ trong vòng 28 ngày kể từ ngày tiêm vaccine rất giống với tỷ lệ chu sinh cơ bản, tương ứng là 4% và 8%.

Điều này mang lại thông tin tích cực về sự an toàn của việc tiêm vaccine ngừa COVID-19 trong thời kỳ mang thai.

Những phát hiện trên là một phần của nghiên cứu COPS, cung cấp thông tin dựa trên dân số cho toàn Scotland về tỷ lệ và kết quả của việc mắc COVID-19 và tiêm vaccine ngừa COVID-19 trong thai kỳ.

COPS là một nhánh của dự án EAVE II, sử dụng dữ liệu bệnh nhân được liên kết ẩn danh ở Scotland để theo dõi đại dịch và chiến dịch tiêm chủng trong thời gian thực.

Nhóm nghiên cứu bao gồm các nhà khoa học từ các trường Đại học Edinburgh, Glasgow, Aberdeen, Strathclyde và St Andrew's; Y tế công cộng Scotland; và Đại học Victoria của Wellington.

Đồng lãnh đạo COPS, Tiến sỹ Sarah Stock, thuộc Viện Usher của Đại học Edinburgh - đồng thời là một bác sĩ sản khoa - cho biết dữ liệu của nghiên cứu bổ sung thêm bằng chứng rằng việc tiêm phòng không làm tăng nguy cơ biến chứng trong thai kỳ, song việc mắc COVID-19 thì lại có nguy cơ gây biến chứng.

Do đó, tiêm chủng trong thai kỳ là yếu tố rất quan trọng để bảo vệ phụ nữ và trẻ sơ sinh khỏi các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng khi mắc COVID-19./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục