Rồng là con vật huyền thoại, thiêng liêng và gần gũi trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đối với người Việt Nam, năm rồng (năm Thìn) ghi dấu nhiều sự kiện đáng nhớ trong lịch sử dân tộc.
Mậu Thìn (248): Khởi nghĩa Bà Triệu
Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, quê ở Triệu Sơn, Thanh Hóa cùng với anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo nhân dân quận Cửu Chân nổi dậy chống ách đô hộ của quân Ngô.
Bà có câu nói nổi tiếng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người.”
Mậu Thìn (548): Triệu Quang Phục xưng vương
Vua Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục lên thay, xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Đến năm Canh Ngọ (550), Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại kinh đô, khôi phục lại nền độc lập cho đất nước.
Mậu Thìn (968): Nước Đại Cồ Việt ra đời
Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong 12 sứ quân, xưng là Vạn Thắng Vương. Năm Mậu Thìn (968), Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Canh Thìn (980): Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế
Trước họa ngoại xâm, Thái hậu Dương Văn Nga đã trao quyền cho Lê Hoàn tổ chức kháng chiến.
Các tướng lĩnh, đứng đầu là Phạm Cự Lạng tôn Lê Hoàn lên làm vua. Dương Thái Hậu thấy mọi người ủng hộ đã trao ngôi vua cho ông.
Lê Hoàn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Phúc, lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống thắng lợi vào năm 981. Đại thắng năm Tân Tị (981) mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng phong kiến phương Bắc.
Bính Thìn (1076): Mở cuộc kháng chiến chống quân Tống, ra đời bản “ Tuyên ngôn độc lập lần thứ 1”
Nhà Tống đem 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu sang xâm lược nước ta. Dưới sự chỉ huy đầy mưu trí của Lý Thường Kiệt, quân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh tan quân xâm lược.
Trong lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, Lý Thường Kiệt đã làm một bài thơ bất hủ, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, cảnh cáo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Canh Thìn (1400): Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ
Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên làm vua, lập ra triều Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu.
Trong khoảng 35 năm nắm quyền chính ở triều Trần và Triều Hồ, Quý Ly từng bước tiến hành những cải cách rộng lớn về mọi mặt.
Nhâm Thìn (1592): Nhà Mạc bại vong
Trịnh Tùng đánh bại nhà Mạc, chấm dứt cuộc nội chiến Nam-Bắc, thống nhất được quốc gia.
Giáp Thìn (1784): Đại phá quân Xiêm xâm lược
Kiếm cớ Nguyễn Ánh cầu viện, tháng 4/1784, vua Xiêm cho một đạo quân 5 vạn thủy bộ vào nước ta.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo tài ba của Nguyễn Huệ, đã tiêu diệt gọn 5 vạn quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh. Chiến thắng vẻ vang này đã kết thúc giai đoạn chiến đấu đánh đổ
chúa Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ đàng trong dưới quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
Nghệ thuật quân sự Nguyễn Huệ trong chiến dịch này đã đưa lên một trình độ mới về tác chiến hợp đồng nhiều binh chủng, hợp đồng thủy bộ; đặc biệt, Nguyễn Huệ đã đưa thủy quân lên một địa vị cao.
Canh Thìn (1940): Khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ
Nhận thấy sự tan rã của chính quyền thực dân sau khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, quân Pháp thất bại và đầu hàng, Đảng bộ Bắc Sơn đã phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, tấn công các đồn bốt và các đơn vị lính Pháp đang rút chạy, cướp vũ khí, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
20 giờ ngày 27/9/1940, hơn 600 quân khởi nghĩa, gồm đủ các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh đã tấn công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn).
Mặc dù cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng đã để lại những bài học quý về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền; đặt được nền móng cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng với những lực lượng vũ trang đầu tiên mà sau này phát triển thành Việt Nam Cứu quốc quân.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra từ giữa đêm 22 rạng ngày 2/-11 cho đến ngày 31/12/1940. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang có quy mô rộng lớn và mạnh mẽ nhất kể từ lúc giặc Pháp xâm lược nước ta năm 1858 đến năm 1940.
Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 đã đi vào lịch sử với nhiều địa danh, những tên tuổi anh hùng và lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng năm cánh (trước trụ sở của Ban khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho tại đình Long Hưng ở Chợ Lớn và một số tỉnh khác) cũng như lần đầu tiên trong tài liệu, truyền đơn xuất hiện tên gọi “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Nhâm Thìn (1952): Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc
Chiến dịch Tây Bắc diễn ra từ ngày 14/10 đến 10/12/1952. Kết quả toàn chiến dịch, quân ta loại khỏi vòng chiến đấu 13.800 tên địch.
Chiến thắng Tây Bắc có một ý nghĩa vô cùng quan trọng là giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của giặc, giải phóng một bộ phận đất đai rộng lớn, một vùng chiến lược quan trọng....
Giáp Thìn (1964): Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ
Ngày 5/8/1964, hòng gỡ lại những thất bại thảm hại ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã gây ra hành động chiến tranh hết sức trắng trợn và vô cùng nghiêm trọng. Tổng thống Johnson đã dựng lên cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Bộ," đã trực tiếp ra lệnh cho máy bay Mỹ tiến công bắn phá nhiều đợt xuống vùng phụ cận Vinh-bến Thủy, cửa Lạch Trường (Thanh Hóa) và cửa sông Gianh (Quảng Bình).
Quân và dân ta đã kiên quyết chiến đấu, bắn rơi tám máy bay Mỹ, bắt sống một phi công.
Từ đó, ngày 5/8 trở thành Ngày truyền thống của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Bính Thìn (1976): Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất
Từ ngày 15-21/11/1975, tại Sài Gòn-Gia Định diễn ra Hội nghị Hiệp thương chính trị bàn vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt nhà nước. Hội nghị Hiệp thương chính trị đã quyết định Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chúng trong cả nước.
Ngày 25/4/1976, Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành trong cả nước.
Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại thủ đô Hà Nội.
Mậu Thìn (1988): Ban hành Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Thông qua Nghị quyết này nông nghiệp nước ta có bước đột phá ngoạn mục. Đến năm 2011, lương thực nước ta đạt gần 40 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo, đứng thứ 2 thế giới.
Canh Thìn (2000): Cả nước bước vào kỷ nguyên mới với những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ
Năm 2000 là năm nước ta có nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn, những sự kiện lịch sử quan trọng như 110 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm ngày thành lập Đảng, 55 năm ngày thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 25 năm ngày giải phóng miền Nam và 990 năm Thăng Long-Hà Nội./.
Mậu Thìn (248): Khởi nghĩa Bà Triệu
Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, quê ở Triệu Sơn, Thanh Hóa cùng với anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo nhân dân quận Cửu Chân nổi dậy chống ách đô hộ của quân Ngô.
Bà có câu nói nổi tiếng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người.”
Mậu Thìn (548): Triệu Quang Phục xưng vương
Vua Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục lên thay, xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương.
Đến năm Canh Ngọ (550), Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại kinh đô, khôi phục lại nền độc lập cho đất nước.
Mậu Thìn (968): Nước Đại Cồ Việt ra đời
Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong 12 sứ quân, xưng là Vạn Thắng Vương. Năm Mậu Thìn (968), Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Canh Thìn (980): Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế
Trước họa ngoại xâm, Thái hậu Dương Văn Nga đã trao quyền cho Lê Hoàn tổ chức kháng chiến.
Các tướng lĩnh, đứng đầu là Phạm Cự Lạng tôn Lê Hoàn lên làm vua. Dương Thái Hậu thấy mọi người ủng hộ đã trao ngôi vua cho ông.
Lê Hoàn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Phúc, lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống thắng lợi vào năm 981. Đại thắng năm Tân Tị (981) mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng phong kiến phương Bắc.
Bính Thìn (1076): Mở cuộc kháng chiến chống quân Tống, ra đời bản “ Tuyên ngôn độc lập lần thứ 1”
Nhà Tống đem 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu sang xâm lược nước ta. Dưới sự chỉ huy đầy mưu trí của Lý Thường Kiệt, quân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh tan quân xâm lược.
Trong lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, Lý Thường Kiệt đã làm một bài thơ bất hủ, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, cảnh cáo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Canh Thìn (1400): Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ
Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên làm vua, lập ra triều Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu.
Trong khoảng 35 năm nắm quyền chính ở triều Trần và Triều Hồ, Quý Ly từng bước tiến hành những cải cách rộng lớn về mọi mặt.
Nhâm Thìn (1592): Nhà Mạc bại vong
Trịnh Tùng đánh bại nhà Mạc, chấm dứt cuộc nội chiến Nam-Bắc, thống nhất được quốc gia.
Giáp Thìn (1784): Đại phá quân Xiêm xâm lược
Kiếm cớ Nguyễn Ánh cầu viện, tháng 4/1784, vua Xiêm cho một đạo quân 5 vạn thủy bộ vào nước ta.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo tài ba của Nguyễn Huệ, đã tiêu diệt gọn 5 vạn quân Xiêm và quân Nguyễn Ánh. Chiến thắng vẻ vang này đã kết thúc giai đoạn chiến đấu đánh đổ
chúa Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ đàng trong dưới quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
Nghệ thuật quân sự Nguyễn Huệ trong chiến dịch này đã đưa lên một trình độ mới về tác chiến hợp đồng nhiều binh chủng, hợp đồng thủy bộ; đặc biệt, Nguyễn Huệ đã đưa thủy quân lên một địa vị cao.
Canh Thìn (1940): Khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ
Nhận thấy sự tan rã của chính quyền thực dân sau khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, quân Pháp thất bại và đầu hàng, Đảng bộ Bắc Sơn đã phát động quần chúng nổi dậy cướp chính quyền, tấn công các đồn bốt và các đơn vị lính Pháp đang rút chạy, cướp vũ khí, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
20 giờ ngày 27/9/1940, hơn 600 quân khởi nghĩa, gồm đủ các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh đã tấn công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn).
Mặc dù cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại nhưng đã để lại những bài học quý về khởi nghĩa vũ trang, xây dựng chính quyền; đặt được nền móng cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng với những lực lượng vũ trang đầu tiên mà sau này phát triển thành Việt Nam Cứu quốc quân.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra từ giữa đêm 22 rạng ngày 2/-11 cho đến ngày 31/12/1940. Đây là cuộc khởi nghĩa vũ trang có quy mô rộng lớn và mạnh mẽ nhất kể từ lúc giặc Pháp xâm lược nước ta năm 1858 đến năm 1940.
Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 đã đi vào lịch sử với nhiều địa danh, những tên tuổi anh hùng và lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng năm cánh (trước trụ sở của Ban khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho tại đình Long Hưng ở Chợ Lớn và một số tỉnh khác) cũng như lần đầu tiên trong tài liệu, truyền đơn xuất hiện tên gọi “Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Nhâm Thìn (1952): Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc
Chiến dịch Tây Bắc diễn ra từ ngày 14/10 đến 10/12/1952. Kết quả toàn chiến dịch, quân ta loại khỏi vòng chiến đấu 13.800 tên địch.
Chiến thắng Tây Bắc có một ý nghĩa vô cùng quan trọng là giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của giặc, giải phóng một bộ phận đất đai rộng lớn, một vùng chiến lược quan trọng....
Giáp Thìn (1964): Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ
Ngày 5/8/1964, hòng gỡ lại những thất bại thảm hại ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã gây ra hành động chiến tranh hết sức trắng trợn và vô cùng nghiêm trọng. Tổng thống Johnson đã dựng lên cái gọi là "sự kiện vịnh Bắc Bộ," đã trực tiếp ra lệnh cho máy bay Mỹ tiến công bắn phá nhiều đợt xuống vùng phụ cận Vinh-bến Thủy, cửa Lạch Trường (Thanh Hóa) và cửa sông Gianh (Quảng Bình).
Quân và dân ta đã kiên quyết chiến đấu, bắn rơi tám máy bay Mỹ, bắt sống một phi công.
Từ đó, ngày 5/8 trở thành Ngày truyền thống của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Bính Thìn (1976): Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất
Từ ngày 15-21/11/1975, tại Sài Gòn-Gia Định diễn ra Hội nghị Hiệp thương chính trị bàn vấn đề thống nhất Việt Nam về mặt nhà nước. Hội nghị Hiệp thương chính trị đã quyết định Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chúng trong cả nước.
Ngày 25/4/1976, Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành trong cả nước.
Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại thủ đô Hà Nội.
Mậu Thìn (1988): Ban hành Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.
Thông qua Nghị quyết này nông nghiệp nước ta có bước đột phá ngoạn mục. Đến năm 2011, lương thực nước ta đạt gần 40 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo, đứng thứ 2 thế giới.
Canh Thìn (2000): Cả nước bước vào kỷ nguyên mới với những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ
Năm 2000 là năm nước ta có nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn, những sự kiện lịch sử quan trọng như 110 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm ngày thành lập Đảng, 55 năm ngày thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 25 năm ngày giải phóng miền Nam và 990 năm Thăng Long-Hà Nội./.
Ngô Trọng Bình (TTXVN/Vietnam+)