Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan soạn thảo Dự thảo Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP), dự thảo Luật PPP đang được lấy ý kiến rộng rãi của các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp, cơ quan quản lý...
Tổng hợp các ý kiến nhận được về quy mô dự án áp dụng PPP, đa số thống nhất việc cần thiết phải có hạn mức và kiến nghị áp dụng PPP đối với dự án nhóm B trở lên.
Theo cơ quan soạn thảo dự thảo, một trong những vấn đề quan trọng được đề cập trong dự thảo luật là quy mô dự án áp dụng PPP.
Quy định về tổng vốn đầu tư để đủ hạn mức được đầu tư theo PPP thay đổi qua các giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định 108/2009/NĐ-CP đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh- Chuyển giao (BOT), Hợp đồng Xây dựng-Chuyển giao-Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây dựng-Chuyển giao (BT) không nêu hạn mức tối thiểu; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công-tư quy định hạn mức từ 20 tỷ đồng trở lên; Nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công- tư đã bỏ quy định về hạn mức.
Thực tế, các dự án PPP ở Việt Nam trong thời gian vừa qua được triển khai chủ yếu thuộc một số lĩnh vực trọng điểm như giao thông vận tải, năng lượng và các dự án này đều có tổng vốn đầu tư lớn (chủ yếu thuộc nhóm A theo phân loại của Luật Đầu tư công 2014); các dự án có quy mô nhóm B trở xuống hầu hết được áp dụng loại hợp đồng BT.
Theo kinh nghiệm quốc tế, quy định quy mô tối thiểu của dự án để thực hiện theo hình thức PPP như sau Canada 100 triệu USD; Australia, Singapore 50 triệu USD, Anh 25 triệu USD. Một số nước áp dụng quy mô nhỏ hơn như Brazil 2,7 triệu USD, Colombia 1,4 triệu USD, Nam Phi một triệu USD.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có một số quốc gia không quy định hạn mức làm PPP như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines. Mặc dù không quy định hạn mức làm PPP nhưng thực tế triển khai PPP tại các nước thường chỉ tập trung đối với các dự án có quy mô đủ lớn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, do hợp đồng PPP thường là dài hạn, yêu cầu nhiều cam kết của phía Chính phủ, vì vậy quy định quy mô dự án tối thiểu nhằm lựa chọn được những dự án xứng đáng để đầu tư theo phương thức này, tránh đầu tư dàn trải dẫn đến nguồn lực bị phân tán, mang lại hiệu quả đầu tư không cao.
[Việt Nam mong muốn WB hỗ trợ xây dựng khung pháp lý về PPP]
Chi phí chuẩn bị đầu tư để đưa một dự án PPP ra thị trường cũng khá cao, do đó, nếu thực hiện PPP cho dự án quy mô nhỏ sẽ không hiệu quả.
Bên cạnh đó, dự án với quy mô đủ lớn mới có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.
Theo dự thảo Luật Đầu tư công sửa đổi hiện nay, dự án thuộc các lĩnh vực như giao thông, điện... có quy mô từ 240 tỷ đồng đến dưới 4.600 tỷ đồng được phân loại là dự án nhóm B.
Ngoài ra, qua thống kê, đa số các dự án PPP đã thực hiện có tổng mức đầu tư trên 200 tỷ đồng (với 233/336 dự án, chiếm tỷ lệ 69,34%; nếu không tính hợp đồng BT, số dự án trên 200 tỷ là 113/148 dự án, chiếm 76,35%).
Do đó, tại khoản 1 Điều 6 Dự thảo Luật PPP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất áp dụng hạn mức để đầu tư PPP ở mức 200 tỷ đồng. Cụ thể, khoản 1 Điều 6 quy định: “Chỉ đầu tư PPP đối với các dự án có tổng mức đầu tư từ 200 tỷ đồng trở lên.”
Hiện nay, cả nước có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng với khoảng 1,6 triệu tỷ đồng vốn đầu tư. Việc thiếu hụt chính sách đối với cơ chế bảo lãnh của Chính phủ trong các dự án PPP là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số dự án giao thông có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài phải tạm dừng như Dự án Dầu Giây-Phan Thiết; dự án Tân Vạn-Nhơn Trạch.
Trong bối cảnh, nguồn vốn đầu tư công không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, việc kêu gọi đầu tư theo hình thức PPP là xu hướng tất yếu nhưng việc thu hút vốn ngày càng khó khăn.
Theo Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, dự thảo Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ tám (tháng 10 tới), thông qua trong năm 2020./.