Hồi ấu thơ ở Hải Phòng, tôi thường nghe và thuộc nhiều bài hát qua chị gái mình, trong đó có những bài hát Phạm Duy.
Không hiểu sao, dù còn nhỏ, nhưng những giai điệu như: “Tôi yêu tiếng nước tôi - từ khi mới ra đời – Mẹ hiền ru những câu xa vời à ơi …”, hay “Tình hoài hương khói bếp vương đây tình hoài hương …”, hoặc “Thuyền ơi viễn xứ xa xôi …” cứ lay động vào tâm hồn bé dại của tôi một cảm xúc mơ hồ không rõ rệt.
Bẵng đi, đến ngày thống nhất, tôi lại nghe Phạm Duy qua những băng cối Akai và thấy thật dễ thương: “Đưa em về dưới mưa – nói năng chi cũng thừa – như mưa đời phất phơ – chắc ta gần nhau chưa …”, hay: “Rước em lên đồi – cỏ non ngập lối – nếu em yên ngồi – trên bãi cỏ non …”, hoặc: “Em Pleiku – má đỏ môi hồng - ở đây trời chiều – quanh năm mùa đông …" và đến khi quen Văn Cao, Hoàng Cầm, tôi biết thêm nhiều về Phạm Duy.
Thực ra ngay từ 1988, tôi đã đề cập đến Phạm Duy trong bài “Về một thời âm nhạc, về một dòng âm nhạc” in trên báo Đại đoàn kết, sau đó là “Nửa thế kỷ âm nhạc” in trên tạp chí Cửa Việt năm 1992. Nhưng có lẽ phải sau một sự kiện liên quan đến bài hát của anh vào năm 1994 thì Phạm Duy mới bắt đầu viết thư cho tôi chia sẻ những ưu tư của mình.
Và mãi đến năm 1997, nhân kỷ niệm chiến thắng sông Lô, tôi mới có dịp đề cập lại Phạm Duy trong bài “Sông Lô – 1 +4” in trên tờ Thể thao & Văn hóa. Một tức là Sông Lô thật cộng với 4 bài hát về sông Lô là “Trường ca sông Lô” (Văn Cao), “Chiến sĩ sông Lô” (Nguyễn Đình Phúc), “Lô Giang” (Lương Ngọc Trác), và “Tiếng hát trên sông Lô” (Phạm Duy). Ở Mỹ, Phạm Duy có đọc được và thư cảm ơn.
Tôi chính thức lần đầu tiên gặp Phạm Duy vào sáng mồng 5 tết năm Canh Thìn 2000. Lần đầu tiên sau nửa thế kỷ, Phạm Duy cùng các con về thăm Hà Nội quê hương. Tôi và anh Hoàng Kỳ, con cả nhà thơ Hoàng Cầm, lên Nội Bài.
Ở cửa sân bay, thấy một người cao to, tóc bạc trắng xóa tươi cười bước ra. Không biết ông đã hình dung ra tôi do ai tả mà ông chủ động hỏi ngay: “Thụy Kha đấy hả? Moa (tôi) đây. Phạm Duy đây”.
Tôi và Hoàng Kỳ ôm choàng ông như ôm một cây đại thụ của làng nhạc Việt. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi gặp tài tử Ngọc Bảo – bạn cũ của Phạm Duy và anh Ngọc Bảo cho biết chiều nay, anh Phạm Thế Duyệt – Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – sẽ tiếp anh Phạm Duy.
Chiều ấy, qua ý kiến anh Duyệt, có cả anh Trọng Bằng, khi ấy là Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam và anh Hồng Đăng, phó tổng thư ký cùng gặp gỡ. Câu chuyện nở như pháo rang.
Trong câu chuyện, anh Duy có ngỏ ý với anh Duyệt xin nhà nước cho phép hồi hương. Nguyện vọng này của anh đã được nhà nước chấp thuận năm 2005.
Suốt thời gian anh Duy ở Hà Nội, tôi trở thành “liên lạc” cho anh. Khi thì đến thăm anh Nguyễn Thiện Tơ ở Mai Hắc Đế. Khi thì đến thăm anh Đoàn Chuẩn ở Cao Bá Quát. Khi thì đến thăm anh Hoàng Giác ở Hàng Bạc. Dịp này, anh còn thăm anh Trần Hoàn và anh Tố Hữu. Những kỷ niệm của nửa thế kỷ trước thường được nhắc lại giữa những mỉm cười và rơm rơm nước mắt.
Đến ngày anh phải bay vào Sài Gòn thì Hà Nội nổi giông gió. Cụ Rùa nổi giữa Hồ Gươm. Chuyến bay phải tạm dừng. Cậu em nhà tôi, tức nhà báo Phạm Mạnh (đã mất 2006) lúc đó là Tổng biên tập báo Bạn Đường xởi lởi mời anh Duy ăn phở ở Đình Ngang và đi tầu lửa tốc hành vào Sài Gòn. Chúng tôi ra tận ga Hàng Cỏ tiễn anh.
Từ sau xuân 2000, Xuân năm nào anh Phạm Duy cũng về Việt Nam. Gặp nhau ở Hà Nội, tôi thường rủ anh du Xuân thăm lại cảnh xưa, người cũ. Có lần tôi đưa anh lên Bắc Ninh, quê hương Quan Họ, thăm chùa Đọ giữa thành phố.
Có lần, tôi đưa anh về Hải Phòng, ra tận Đồ Sơn ăn tất niên tại tư gia anh Hoàng Gia Cung cùng Đào Trọng Khánh. Anh Duy và anh Khánh đều là những người hay chuyện. Chuyện trên trời, dưới biển. Chuyện tào lao tếu táo. Đủ cả. Cảm giác như Phạm Duy trẻ lại sau mỗi lần về. Nhìn thấy đất nước ngày càng đổi mới, anh càng xác tín nguyện vọng của mình.
Những ngày ở Hà Nội, tôi thường hay đưa anh đến quán Mai Hoa ở ngõ Cấm Chỉ. Mai Hoa là người yêu âm nhạc tuy làm nghề in tráng ở xưởng phim tài liệu một thời. Mai Hoa là con gái đạo diễn Vũ Phạm Từ. Tính tình xởi lởi vui vẻ nên anh Duy rất mến.
Có giao thừa tôi phải về nhà, đành nhờ Mai Hoa tháp tùng “ông anh” đi vòng Hồ Gươm để lấy lại cảm giác xuân xưa trong giai điệu Đoàn Chuẩn: “Đêm Tân xuân – Hồ Gươm như say mê – chuông reo ngân Ngọc Sơn sao uy nghi …”.
Cũng ở quán Mai Hoa, Phạm Duy gặp lại nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ. Các ông nhắc lại chuyện xưa cùng đi nghe hát ả đào ở Khâm Thiên và cười rộ lên như trẻ lại.
Thường về Hà Nội, Phạm Duy hay ở khách sạn phố Hàng Dầu để gần căn nhà xưa cũ mà ông đã từng ca cẩm rất bụi đời: “Nhà tôi ở phố Hàng Dầu – số nhà năm bốn (54) đứng đầu du côn”. Không chỉ gần nhà mà còn gần Hồ Gươm gắn với kỷ niệm khi ông viết bài hát đầu tiên “Cô hái mơ” (thơ Nguyễn Bính).
Hồi ấy, thơ Nguyễn Bính lan tỏa mạnh mẽ vào đời sống bởi hồn chân quê. Phạm Duy và Nguyễn Đình Phúc không có tiền mua sách, bèn đến mượn ông Ngoạn, chủ nhà sách ở Cầu Gỗ và hẹn sẽ đọc xong sau khi đi vòng quanh một vòng Hồ Gươm, rồi trả lại. Không chỉ đọc hết tập thơ, hai ông còn hẹn với nhau sẽ cùng phổ nhạc một bài thơ của Nguyễn Bính sau khi đi hết vòng hồ.
Và “Cô lái đò” của Nguyễn Đình Phúc, “Cô hái mơ” của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Bính đã ra đời như thế.
Có lúc do công việc với công ty Phương Nam quay phim hoặc biểu diễn, ông lại ở ngay khách sạn Đường Thành ngay bên nách nhà tôi. Vậy là thành láng giềng suốt những ngày Hà Nội.
Phạm Duy cực thích ăn phở bò Hà Nội, mà phải là phở chín như Vũ Bằng tả trong “Miếng ngon Hà Nội” cơ. Vậy nên tôi và anh hết ăn phở Bát Đàn, lại quành sang Lý Quốc Sư. Hết ăn phở Ngõ Trạm, lại taxi đến phở Hùng Phan Bội Châu. Ông Hùng chủ quán phở quá mến mộ Phạm Duy nên kính cẩn mời một bát đặc biệt, một chầu cà phê và bẽn lẽn xin … chữ ký.
Ngược với Văn Cao và Hoàng Cầm, Phạm Duy không bia rượu và hút thuốc. Có lẽ ông chỉ hợp với Hoàng Cầm ở khoản tình tang. Điều này, Hoàng Cầm đã viết ở “Phạm Duy trong tôi”.
Vào Sài Gòn, tôi cũng thường thăm anh. Khi thì cùng Lưu Trọng Văn, Lê Quân đến tư gia ở quận 11. Khi thì ngồi cùng nhà báo Mỹ ở Sương Nguyệt Ánh. Khi thì ngồi với cháu gái nhạc sĩ Đan Trường, tác giả “Trách người đi” ở Gò Vấp…
Hồi chương trình Phạm Duy ở Sài Gòn, tôi cũng được mời viết lời bình và vào rạp Hòa Bình thưởng thức qua giọng MC của Nghệ sỹ Nhân dân Trần Hiếu. Ngày tôi ra mắt tập tuyển chọn “1000 ca khúc Thăng Long – Hà Nội” tại Sài Gòn, anh cũng đến dự và nói rất hay. Cứ thế, anh em chia sẻ nỗi niềm rất tự nhiên và chân thành.
Gần đây, Phạm Duy bắt đầu mệt nặng. Giữa tháng 12/2012 tôi và Tùng Dương vào Huế làm chương trình Tùng Dương độc diễn với sinh viên Huế qua các ca khúc Phạm Duy, Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Trịnh Công Sơn … Anh không thể ra dự được mặc dù rất muốn.
Trước đó, khi làm chương trình ở Sài Gòn, Tùng Dương có tới thăm anh. Đêm hát Phạm Duy ở Huế, Tùng Dương rất thăng hoa. Hay nhất có lẽ là “Ngậm ngùi” (thơ Huy Cận). Nhờ hồi hương, lớp trẻ hôm nay biết Phạm Duy hơn.
Các ca sĩ trẻ cũng dần thấm Phạm Duy như Thanh Lam, Hồng Nhung, Tấn Minh, Mỹ Linh, Nguyên Thảo, Đức Tuấn, Tùng Dương, Khánh Linh … Đó cũng là niềm vui giúp cho anh sống thanh thản những năm tháng cuối đời.
[Phạm Duy: Người đã “về động hoa vàng” cùng ai...]
Chiều 27/1/2013, nghe tin anh… tạ mùa đi. Chợt nhói lòng trống trải. Những kỷ niệm suốt 12 năm gần gũi anh cứ hiện về chập chờn, như thực, như mơ. Đêm đến cũng không tài nào chợp mắt. Tôi vùng dậy viết bài thơ tượng niệm anh. Vĩnh biệt anh nhé – một người anh yêu quý./.
Một ngọn khói
Tưởng niệm Phạm Duy
Hát Văn Cao rồi hát chính mình
nhạc nhạc dâng từng đợt từng đợt
chất ngất
thời gian
đốt trong mình hực lửa tâm can
tỏa ra đời những ngọn khói giai điệu
hát tới trời cao những áng mây huyễn diệu
tình yêu “tôi yêu tiếng nước tôi”
thế giới một tinh cầu sao mãi chia đôi
lửa tắt nơi này lại bùng nơi khác
dập tắt hết khói vẫn còn lang bạt
đàn bỏ quên câu hát vẫn phiêu diêu
những ma-xơ, những Hoàng Thị, những Kiều
đã thành khói, thành mây bồng bềnh tóc trắng
cuộc du ca cũng đến hồi xế bóng
chiều nghiêng nghiêng thăm thẳm khói ngưng
sẽ thấm vào đời một ngọn khói vương
một ngọn khói không gì giam hãm được
rằm chạp này thêm nén nhang nhớ tiếc
một ngọn khói bay về cõi xa xăm
Đêm 27/1/2013
Không hiểu sao, dù còn nhỏ, nhưng những giai điệu như: “Tôi yêu tiếng nước tôi - từ khi mới ra đời – Mẹ hiền ru những câu xa vời à ơi …”, hay “Tình hoài hương khói bếp vương đây tình hoài hương …”, hoặc “Thuyền ơi viễn xứ xa xôi …” cứ lay động vào tâm hồn bé dại của tôi một cảm xúc mơ hồ không rõ rệt.
Bẵng đi, đến ngày thống nhất, tôi lại nghe Phạm Duy qua những băng cối Akai và thấy thật dễ thương: “Đưa em về dưới mưa – nói năng chi cũng thừa – như mưa đời phất phơ – chắc ta gần nhau chưa …”, hay: “Rước em lên đồi – cỏ non ngập lối – nếu em yên ngồi – trên bãi cỏ non …”, hoặc: “Em Pleiku – má đỏ môi hồng - ở đây trời chiều – quanh năm mùa đông …" và đến khi quen Văn Cao, Hoàng Cầm, tôi biết thêm nhiều về Phạm Duy.
Thực ra ngay từ 1988, tôi đã đề cập đến Phạm Duy trong bài “Về một thời âm nhạc, về một dòng âm nhạc” in trên báo Đại đoàn kết, sau đó là “Nửa thế kỷ âm nhạc” in trên tạp chí Cửa Việt năm 1992. Nhưng có lẽ phải sau một sự kiện liên quan đến bài hát của anh vào năm 1994 thì Phạm Duy mới bắt đầu viết thư cho tôi chia sẻ những ưu tư của mình.
Và mãi đến năm 1997, nhân kỷ niệm chiến thắng sông Lô, tôi mới có dịp đề cập lại Phạm Duy trong bài “Sông Lô – 1 +4” in trên tờ Thể thao & Văn hóa. Một tức là Sông Lô thật cộng với 4 bài hát về sông Lô là “Trường ca sông Lô” (Văn Cao), “Chiến sĩ sông Lô” (Nguyễn Đình Phúc), “Lô Giang” (Lương Ngọc Trác), và “Tiếng hát trên sông Lô” (Phạm Duy). Ở Mỹ, Phạm Duy có đọc được và thư cảm ơn.
Tôi chính thức lần đầu tiên gặp Phạm Duy vào sáng mồng 5 tết năm Canh Thìn 2000. Lần đầu tiên sau nửa thế kỷ, Phạm Duy cùng các con về thăm Hà Nội quê hương. Tôi và anh Hoàng Kỳ, con cả nhà thơ Hoàng Cầm, lên Nội Bài.
Ở cửa sân bay, thấy một người cao to, tóc bạc trắng xóa tươi cười bước ra. Không biết ông đã hình dung ra tôi do ai tả mà ông chủ động hỏi ngay: “Thụy Kha đấy hả? Moa (tôi) đây. Phạm Duy đây”.
Tôi và Hoàng Kỳ ôm choàng ông như ôm một cây đại thụ của làng nhạc Việt. Ngay chiều hôm đó, chúng tôi gặp tài tử Ngọc Bảo – bạn cũ của Phạm Duy và anh Ngọc Bảo cho biết chiều nay, anh Phạm Thế Duyệt – Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – sẽ tiếp anh Phạm Duy.
Chiều ấy, qua ý kiến anh Duyệt, có cả anh Trọng Bằng, khi ấy là Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam và anh Hồng Đăng, phó tổng thư ký cùng gặp gỡ. Câu chuyện nở như pháo rang.
Trong câu chuyện, anh Duy có ngỏ ý với anh Duyệt xin nhà nước cho phép hồi hương. Nguyện vọng này của anh đã được nhà nước chấp thuận năm 2005.
Suốt thời gian anh Duy ở Hà Nội, tôi trở thành “liên lạc” cho anh. Khi thì đến thăm anh Nguyễn Thiện Tơ ở Mai Hắc Đế. Khi thì đến thăm anh Đoàn Chuẩn ở Cao Bá Quát. Khi thì đến thăm anh Hoàng Giác ở Hàng Bạc. Dịp này, anh còn thăm anh Trần Hoàn và anh Tố Hữu. Những kỷ niệm của nửa thế kỷ trước thường được nhắc lại giữa những mỉm cười và rơm rơm nước mắt.
Đến ngày anh phải bay vào Sài Gòn thì Hà Nội nổi giông gió. Cụ Rùa nổi giữa Hồ Gươm. Chuyến bay phải tạm dừng. Cậu em nhà tôi, tức nhà báo Phạm Mạnh (đã mất 2006) lúc đó là Tổng biên tập báo Bạn Đường xởi lởi mời anh Duy ăn phở ở Đình Ngang và đi tầu lửa tốc hành vào Sài Gòn. Chúng tôi ra tận ga Hàng Cỏ tiễn anh.
Từ sau xuân 2000, Xuân năm nào anh Phạm Duy cũng về Việt Nam. Gặp nhau ở Hà Nội, tôi thường rủ anh du Xuân thăm lại cảnh xưa, người cũ. Có lần tôi đưa anh lên Bắc Ninh, quê hương Quan Họ, thăm chùa Đọ giữa thành phố.
Có lần, tôi đưa anh về Hải Phòng, ra tận Đồ Sơn ăn tất niên tại tư gia anh Hoàng Gia Cung cùng Đào Trọng Khánh. Anh Duy và anh Khánh đều là những người hay chuyện. Chuyện trên trời, dưới biển. Chuyện tào lao tếu táo. Đủ cả. Cảm giác như Phạm Duy trẻ lại sau mỗi lần về. Nhìn thấy đất nước ngày càng đổi mới, anh càng xác tín nguyện vọng của mình.
Những ngày ở Hà Nội, tôi thường hay đưa anh đến quán Mai Hoa ở ngõ Cấm Chỉ. Mai Hoa là người yêu âm nhạc tuy làm nghề in tráng ở xưởng phim tài liệu một thời. Mai Hoa là con gái đạo diễn Vũ Phạm Từ. Tính tình xởi lởi vui vẻ nên anh Duy rất mến.
Có giao thừa tôi phải về nhà, đành nhờ Mai Hoa tháp tùng “ông anh” đi vòng Hồ Gươm để lấy lại cảm giác xuân xưa trong giai điệu Đoàn Chuẩn: “Đêm Tân xuân – Hồ Gươm như say mê – chuông reo ngân Ngọc Sơn sao uy nghi …”.
Cũng ở quán Mai Hoa, Phạm Duy gặp lại nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ. Các ông nhắc lại chuyện xưa cùng đi nghe hát ả đào ở Khâm Thiên và cười rộ lên như trẻ lại.
Thường về Hà Nội, Phạm Duy hay ở khách sạn phố Hàng Dầu để gần căn nhà xưa cũ mà ông đã từng ca cẩm rất bụi đời: “Nhà tôi ở phố Hàng Dầu – số nhà năm bốn (54) đứng đầu du côn”. Không chỉ gần nhà mà còn gần Hồ Gươm gắn với kỷ niệm khi ông viết bài hát đầu tiên “Cô hái mơ” (thơ Nguyễn Bính).
Hồi ấy, thơ Nguyễn Bính lan tỏa mạnh mẽ vào đời sống bởi hồn chân quê. Phạm Duy và Nguyễn Đình Phúc không có tiền mua sách, bèn đến mượn ông Ngoạn, chủ nhà sách ở Cầu Gỗ và hẹn sẽ đọc xong sau khi đi vòng quanh một vòng Hồ Gươm, rồi trả lại. Không chỉ đọc hết tập thơ, hai ông còn hẹn với nhau sẽ cùng phổ nhạc một bài thơ của Nguyễn Bính sau khi đi hết vòng hồ.
Và “Cô lái đò” của Nguyễn Đình Phúc, “Cô hái mơ” của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Bính đã ra đời như thế.
Có lúc do công việc với công ty Phương Nam quay phim hoặc biểu diễn, ông lại ở ngay khách sạn Đường Thành ngay bên nách nhà tôi. Vậy là thành láng giềng suốt những ngày Hà Nội.
Phạm Duy cực thích ăn phở bò Hà Nội, mà phải là phở chín như Vũ Bằng tả trong “Miếng ngon Hà Nội” cơ. Vậy nên tôi và anh hết ăn phở Bát Đàn, lại quành sang Lý Quốc Sư. Hết ăn phở Ngõ Trạm, lại taxi đến phở Hùng Phan Bội Châu. Ông Hùng chủ quán phở quá mến mộ Phạm Duy nên kính cẩn mời một bát đặc biệt, một chầu cà phê và bẽn lẽn xin … chữ ký.
Ngược với Văn Cao và Hoàng Cầm, Phạm Duy không bia rượu và hút thuốc. Có lẽ ông chỉ hợp với Hoàng Cầm ở khoản tình tang. Điều này, Hoàng Cầm đã viết ở “Phạm Duy trong tôi”.
Vào Sài Gòn, tôi cũng thường thăm anh. Khi thì cùng Lưu Trọng Văn, Lê Quân đến tư gia ở quận 11. Khi thì ngồi cùng nhà báo Mỹ ở Sương Nguyệt Ánh. Khi thì ngồi với cháu gái nhạc sĩ Đan Trường, tác giả “Trách người đi” ở Gò Vấp…
Hồi chương trình Phạm Duy ở Sài Gòn, tôi cũng được mời viết lời bình và vào rạp Hòa Bình thưởng thức qua giọng MC của Nghệ sỹ Nhân dân Trần Hiếu. Ngày tôi ra mắt tập tuyển chọn “1000 ca khúc Thăng Long – Hà Nội” tại Sài Gòn, anh cũng đến dự và nói rất hay. Cứ thế, anh em chia sẻ nỗi niềm rất tự nhiên và chân thành.
Gần đây, Phạm Duy bắt đầu mệt nặng. Giữa tháng 12/2012 tôi và Tùng Dương vào Huế làm chương trình Tùng Dương độc diễn với sinh viên Huế qua các ca khúc Phạm Duy, Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Trịnh Công Sơn … Anh không thể ra dự được mặc dù rất muốn.
Trước đó, khi làm chương trình ở Sài Gòn, Tùng Dương có tới thăm anh. Đêm hát Phạm Duy ở Huế, Tùng Dương rất thăng hoa. Hay nhất có lẽ là “Ngậm ngùi” (thơ Huy Cận). Nhờ hồi hương, lớp trẻ hôm nay biết Phạm Duy hơn.
Các ca sĩ trẻ cũng dần thấm Phạm Duy như Thanh Lam, Hồng Nhung, Tấn Minh, Mỹ Linh, Nguyên Thảo, Đức Tuấn, Tùng Dương, Khánh Linh … Đó cũng là niềm vui giúp cho anh sống thanh thản những năm tháng cuối đời.
[Phạm Duy: Người đã “về động hoa vàng” cùng ai...]
Chiều 27/1/2013, nghe tin anh… tạ mùa đi. Chợt nhói lòng trống trải. Những kỷ niệm suốt 12 năm gần gũi anh cứ hiện về chập chờn, như thực, như mơ. Đêm đến cũng không tài nào chợp mắt. Tôi vùng dậy viết bài thơ tượng niệm anh. Vĩnh biệt anh nhé – một người anh yêu quý./.
Một ngọn khói
Tưởng niệm Phạm Duy
Hát Văn Cao rồi hát chính mình
nhạc nhạc dâng từng đợt từng đợt
chất ngất
thời gian
đốt trong mình hực lửa tâm can
tỏa ra đời những ngọn khói giai điệu
hát tới trời cao những áng mây huyễn diệu
tình yêu “tôi yêu tiếng nước tôi”
thế giới một tinh cầu sao mãi chia đôi
lửa tắt nơi này lại bùng nơi khác
dập tắt hết khói vẫn còn lang bạt
đàn bỏ quên câu hát vẫn phiêu diêu
những ma-xơ, những Hoàng Thị, những Kiều
đã thành khói, thành mây bồng bềnh tóc trắng
cuộc du ca cũng đến hồi xế bóng
chiều nghiêng nghiêng thăm thẳm khói ngưng
sẽ thấm vào đời một ngọn khói vương
một ngọn khói không gì giam hãm được
rằm chạp này thêm nén nhang nhớ tiếc
một ngọn khói bay về cõi xa xăm
Đêm 27/1/2013
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha (Vietnam+)