Nhân lần đầu tiên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 đang diễn ra, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan đã có bài viết với nhan đề: Đôi điều suy ngẫm về “văn hóa ngoại giao Việt Nam."
Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết.
Đôi điều suy ngẫm về “văn hóa ngoại giao Việt Nam”
Tiếp nối Hội nghị toàn quốc về văn hóa, Hội nghị toàn quốc triển khai công tác đối ngoại theo tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng họp, trong tôi bỗng nảy sinh đôi điều suy tư về “văn hóa ngoại giao” với cái nghĩa là minh triết ứng xử của người Việt trong mối bang giao với thiên hạ. Vả lại, “ngoại giao” vốn được coi là “khoa học và nghệ thuật điều hành quan hệ quốc tế” nên bản thân nó đã mang trong mình nội hàm văn hóa.
Qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã vun đắp nên nhiều giá trị văn hiến độc đáo, trong đó có văn hóa ngoại giao đặc sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là sự kết tinh và phát triển những giá trị vô giá được tích tụ qua các thời đại Lý, Trần, Lê, Tây Sơn… huy hoàng. Không phải ngẫu nhiên UNESCO từng vinh danh Bác Hồ của chúng ta chẳng những là “anh hùng giải phóng dân tộc” mà còn là “nhà văn hóa kiệt xuất!”
Nội hàm “văn hóa ngoại giao” rất rộng; ở đây chỉ xin mạo muội chia sẻ về bốn cụm đặc trưng nổi bật; đó là kiên định trong mục tiêu, nhân văn trong cốt cách, rộng mở trong tinh thần và linh hoạt trong hành động.
Trên thế giới hiếm có dân tộc nào như dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử phải đổ biết bao xương máu để gìn giữ giang sơn trước các cuộc xâm lăng của các thế lực ngoại xâm mạnh hơn gấp bội. Hận mất nước đã góp phần hun đúc thêm lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường sắt đá bảo vệ cho được quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của quốc gia.
Ý chí ấy của dân tộc đã được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên đọc vào 76 năm trước: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy."
Gắn liền với ý chí sắt đá bảo vệ độc lập của nước nhà, quyền tự do của nhân dân, văn hóa ngoại giao Việt Nam luôn hàm chứa tinh thần hòa hiếu: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai” như Bác Hồ từng khẳng định. Thể hiện tinh thần hòa hiếu ấy, Người đã từng tiến hành hoạt động ngoại giao sôi động nhằm cứu vãn hòa bình thể hiện trong Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, tiếp đó là Tạm ước 14/9 được ký trong chuyến thăm chính thức nước Pháp trong 5 tháng trời nhằm tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược không thể tránh khỏi.
Tinh thần nhân văn là một đặc điểm vốn có nữa trong cốt cách của văn hóa ngoại giao Việt Nam. Trong khi nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc, người Việt Nam không bao giờ nuôi hận thù dân tộc, trái lại luôn phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp nhân dân với các thế lực hiếu chiến; sau khi kết thúc chiến tranh luôn bầy tỏ thiện chí “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai." Cốt cách ấy có sức mạnh thu phục lòng người rất mạnh, kể cả những người đã từng bị lôi cuốn vào các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Làm ngoại giao, cá nhân tôi đã từng có nhiều dịp tiếp xúc với họ, trong đó có những người sau này giữ cương vị cao trong chính quyền và giới kinh doanh các nước đó.
Tự hào về nền văn hiến lâu đời và giàu bản sắc của dân tộc mình, người Việt Nam chúng ta không bao giờ khép kín mà luôn mở lòng tiếp nhận tinh hoa văn hóa của cả phương Đông lẫn phương Tây; nhạy bén nắm bắt các xu thế tiến bộ lớn của thời đại; trong thương thuyết luôn kiên định bảo vệ lẽ phải nhưng không ngạo mạn; trong giao tiếp luôn cởi mở nhưng không xuồng xã; trong ứng xử luôn khiêm nhường nhưng không quỵ lụy; khi đãi đằng khách quý luôn chu đáo nhưng không gò bó…
[Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc]
Đối với văn minh nhân loại, ngay từ năm 1919 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường." Một minh chứng khác về tinh thần cởi mở của Người là tháng 12 năm 1946, trên ngưỡng cửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác đã gửi cho Liên Hợp Quốc bức thư bày tỏ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” kèm theo những hình thức hợp tác rất rộng mở mà ngày nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế mới thực hiện được.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh ngoại giao nói riêng đã hình thành nên cả một hệ thống phương cách hành động đa dạng về loại hình, tinh tế về tính chất, hiệu quả về tác dụng thể hiện rất rõ đặc sắc văn hóa Việt Nam.
Về mối quan hệ giữa thực lực và ngoại giao, Bác Hồ từng nhấn mạnh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn." Điều đó không có nghĩa là ngoại giao đóng vai trò thụ động; trái lại thành công của ngoại giao về phần mình đã đóng góp thiết thực và to lớn vào việc củng cố thực lực.
Khi nói tới “thực lực” có lẽ nên hiểu là sự tổng hòa cả “sức mạnh cứng” lẫn “sức mạnh mềm” thể hiện trong tinh hoa văn hóa dân tộc, ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết của toàn dân; tính chính nghĩa của sự nghiệp; tính đúng đắn của đường lối và sự sắc bén trong lãnh đạo, điều hành.
Những cách tiếp cận “cương-nhu” tùy từng vấn đề, từng thời điểm và từng đối tác; “nguyên tắc của ta thì vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt," “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ, Kiên quyết không ngừng thế tiến công, Lạc nước hai xe đành bỏ phí, Gặp thời một tốt cũng thành công” như Bác Hồ dặn đều là những nét đặc trưng của ngoại giao Việt Nam.
Đặt sự nghiệp dân tộc trong dòng chảy của thời đại, ngoại giao Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế” qua đó gia tăng gấp bội thực lực bản thân.
Được vận dụng nhuần nhuyễn trong công cuộc cách mạng nói chung, hoạt động ngoại giao nói riêng, những triết lý trên đã góp phần cực kỳ quan trọng vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta suốt 76 năm qua.
Có thể nói, văn hóa ngoại giao do các thế hệ ông cha ta và Bác Hồ để lại là “báu vật quốc gia” về nền văn minh đất Việt.
Việc vận dụng nhuần nhuyễn những giá trị văn hóa ngoại giao không chỉ là công việc của các nhà ngoại giao chuyên nghiệp mà còn là yêu cầu không thể thiếu đối với mọi ngành, mọi cấp, thậm chí cả đối với mỗi người dân trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng chưa từng thấy với thế giới bên ngoài. Thiết nghĩ, khi tiếp xúc với bạn bè gần xa ở trong nước cũng như khi đi ra nước ngoài, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế. Tiếc rằng, trong cách ứng xử với bên ngoài có những người chẳng những không “khoe” được cái đẹp, mà còn lộ ra những nét chưa đẹp, chưa hay. Nếu không gột sạch những vết mờ ấy thì văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng.
Vận dụng ý tưởng của Bác Hồ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi," chúng ta tin rằng, văn hóa ngoại giao sẽ soi đường cho ngoại giao Việt Nam không ngừng tiến bước, góp phần to lớn hơn nữa vào công cuộc hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam lên đài quang vinh, sánh vai cùng bè bạn năm châu như Bác Hồ hằng mong ước./.