Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973-27/1/2013), phóng viên TTXVN tại Pháp đã có cuộc gặp gỡ với một số Việt kiều là nhân chứng đã từng sống, chứng kiến và tham gia tích cực các hoạt động ủng hộ đoàn đại biểu Việt Nam các cuộc đàm phán góp phần không nhỏ vào việc ký kết thành công các văn kiện lịch sử này.
Cách đây 40 năm đa số các Việt kiều sang Pháp là những thanh niên tuổi mới ngoài đôi mươi (có người còn chưa tới tuổi 20) và tập trung dưới mái nhà chung gọi là Hội “Liên hiệp Việt kiều tại Pháp” thành lập tháng 4/1969 mục tiêu phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hội lúc đó có nhiều tổ chức như sinh viên Việt Nam, có Liên hiệp trí thức Việt Nam, Hội công nhân, Hội thương gia, phụ lão, y học tại Pháp … Đến cuối 12/1975 sau khi chiến thắng hoàn toàn và thống nhất đất nước, Hội Liên hiệp Việt kiều đã tự giải tán, vì nhiệm vụ chính lúc này là xây dựng và kiến thiết đất nước. Đến 1976, “Hội người Việt Nam tại Pháp (UGVF)” thành lập và giữ nguyên cho đến hôm nay.
Các thành viên của hội luôn hướng về đất nước và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc mình và gia nhập phong trào yêu nước với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé sức mình vào cuộc đấu tranh vì hòa bình và độc lập dân tộc. Sự ủng hộ và giúp đỡ của các Việt kiều này nói riêng và của cả cộng đồng người Việt Nam tại Pháp nói chung đã trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu tạo nên chiến thắng lịch sử hôm nay.
Bác Nguyên Văn Bổn, hiện nay là phó chủ tịch UGFV, phụ trách công tác đối ngoại của Hội, lúc đó là Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam (có khoảng 300 người), cho biết số người còn sống tham gia trực tiếp giúp đỡ các phái đoàn Việt Nam không còn nhiều. Đối với người Việt Nam tại Pháp, ủng hộ về vật chất không phải là vấn đề quan trọng. Bà con Việt kiều từ năm 1954 đã đóng góp tiền để gửi về Quỹ chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam.
Thời kỳ đó có các bộ phận cùng phối hợp làm việc hàng ngày trong thời gian này như làm báo, dịch tài liệu; lo sức khỏe cho các đoàn khi có người ốm đau gồm các bác sỹ Phan, bác sỹ Dân, nha sỹ Ngô Thuần Phương; và theo dõi hoạt động của đối phương, của đoàn chính quyền Sài gòn cũ ….
Bộ phận khác theo dõi thông tin liên quan đến dư luận của người Pháp, Việt kiều, sinh viên, những người khác ủng hộ hay không ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hoạt động của bộ phận thứ ba này không mấy khi được nhắc tới vì được xem như nhiệm vụ bí mật thời gian đó và đã mang về nhiều thông tin quý giá cho tiến trình đàm phán.
Những người khác trực tiếp làm công tác tuyên truyền, vận động phải thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các buổi míttinh để giải thích cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và diễn biến của hội nghị Paris.
Cùng chia sẻ tình cảm và những kỷ niệm không thể nào quên với bác Bổn, bác Bùi Thanh Tùng, hiện nay là Tổng thư ký UGVF, cho biết bác sang Pháp năm 1967. Từ năm 1968-1972 diễn ra các cuộc đàm phán hai bên và bốn bên, bác thường xuyên hoạt động trong Phong trào Liên hiệp sinh viên Việt Nam tại Pháp (sinh viên sang Pháp khá đông từ năm 1960 đến 1968 nhưng sau đó không sang nữa).
Với thế mạnh của giới sinh viên là trẻ, năng nổ, dễ tiếp cận và Việt Nam khi đó là một điểm nóng trên thế giới, tại các ký túc xá sinh viên, nhiều buổi hội thảo kéo dài cho đến khuya, cùng nhau trao đổi với các bạn bè quốc tế, sinh viên Pháp về tình hình chiến tranh ở Việt Nam.
Bác Tùng không giấu nổi cảm xúc khi kể lại một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất đó là sau chiến thắng oanh liệt bắn rơi rất nhiều máy bay B52 của Mỹ trên Hà Nội cuối tháng 12/1972, đầu tháng 1/1973 Mỹ đã phải trở lại bàn đàm phán, ban đầu là đàm phán bí mật, sau đó là ký kết tại Trung tâm hội nghị quốc tế Kléber vào ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris về hòa bình lịch sử này.
Theo bác Tùng kể lại, ngay từ sáng sớm, rất đông mọi người đứng thành hàng dài suốt hai bên vào cửa ra vào trung tâm với cờ đỏ sao vàng, cờ xanh, đỏ của mặt trận giải phóng Miền nam Việt Nam để phô trương lực lượng, ủng hộ cho hòa bình của Việt Nam và để bày tỏ tình cảm của mình đối với chiến thắng của đất nước.
Những đóng góp thầm lặng
Nhiều bác tuổi đã ngoài 80 không thể nhớ hết và không thể diễn đạt rành mạch những gì mình đã làm và những gì mình cảm nhận được trong suốt thời gian từ 1968 đến 1973, như của cô Thérèse Nguyễn Văn Ký (chúng tôi quen gọi “cô” như vậy theo người miền Nam), nhưng năm nay cô đã hơn 80 tuổi. Hiện nay cô là Chủ tịch UGVF.
Cách đây 40 năm và cũng như bây giờ cô vẫn là bác sỹ. Chỉ có điều khi đó, nhiệm vụ của cô là tham gia chăm sóc sức khỏe cho đoàn hoặc cho bà con Việt kiều mỗi khi ốm đau, cùng những công việc khác như tham gia míttinh, biểu tình vận động quần chúng, hậu cần… cho các đoàn.
Đến nay khi hỏi cô về những gì cô thường đau đáu nhớ về nó sau 40 năm, cô cho biết cô không thể nào quên hình ảnh đường phố Champs Elysées trung tâm thủ đô Paris tung bay cờ đỏ sao vàng khẳng định thắng lợi các cuộc đàm phán về hòa bình ở Việt Nam.
Còn bác Đoàn Hữu Trung, lúc đó làm nhiệm vụ gặp gỡ bà con cũng như Hội, tổ chức các cuộc míttinh ở nơi nào có Việt kiều, gặp đoàn mặt trận giải phóng ở Massy để giúp đỡ họ. Ngoài kỷ niệm riêng - đứa con gái đầu lòng của bác được sinh ra đúng những năm tháng đang diễn ra đàm phán, bác còn luôn nhớ đến thời gian sống và làm việc cùng đoàn miền Nam do bà Bình dẫn đầu.
Trong thời gian được sống cùng với phái đoàn, bác cảm thấy mình có may mắn được gần với cách mạng và coi những người trong phái đoàn như là những chiến sỹ trên mặt trận ngoại giao. /.
Cách đây 40 năm đa số các Việt kiều sang Pháp là những thanh niên tuổi mới ngoài đôi mươi (có người còn chưa tới tuổi 20) và tập trung dưới mái nhà chung gọi là Hội “Liên hiệp Việt kiều tại Pháp” thành lập tháng 4/1969 mục tiêu phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hội lúc đó có nhiều tổ chức như sinh viên Việt Nam, có Liên hiệp trí thức Việt Nam, Hội công nhân, Hội thương gia, phụ lão, y học tại Pháp … Đến cuối 12/1975 sau khi chiến thắng hoàn toàn và thống nhất đất nước, Hội Liên hiệp Việt kiều đã tự giải tán, vì nhiệm vụ chính lúc này là xây dựng và kiến thiết đất nước. Đến 1976, “Hội người Việt Nam tại Pháp (UGVF)” thành lập và giữ nguyên cho đến hôm nay.
Các thành viên của hội luôn hướng về đất nước và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc mình và gia nhập phong trào yêu nước với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé sức mình vào cuộc đấu tranh vì hòa bình và độc lập dân tộc. Sự ủng hộ và giúp đỡ của các Việt kiều này nói riêng và của cả cộng đồng người Việt Nam tại Pháp nói chung đã trở thành một trong những yếu tố không thể thiếu tạo nên chiến thắng lịch sử hôm nay.
Bác Nguyên Văn Bổn, hiện nay là phó chủ tịch UGFV, phụ trách công tác đối ngoại của Hội, lúc đó là Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam (có khoảng 300 người), cho biết số người còn sống tham gia trực tiếp giúp đỡ các phái đoàn Việt Nam không còn nhiều. Đối với người Việt Nam tại Pháp, ủng hộ về vật chất không phải là vấn đề quan trọng. Bà con Việt kiều từ năm 1954 đã đóng góp tiền để gửi về Quỹ chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam.
Thời kỳ đó có các bộ phận cùng phối hợp làm việc hàng ngày trong thời gian này như làm báo, dịch tài liệu; lo sức khỏe cho các đoàn khi có người ốm đau gồm các bác sỹ Phan, bác sỹ Dân, nha sỹ Ngô Thuần Phương; và theo dõi hoạt động của đối phương, của đoàn chính quyền Sài gòn cũ ….
Bộ phận khác theo dõi thông tin liên quan đến dư luận của người Pháp, Việt kiều, sinh viên, những người khác ủng hộ hay không ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hoạt động của bộ phận thứ ba này không mấy khi được nhắc tới vì được xem như nhiệm vụ bí mật thời gian đó và đã mang về nhiều thông tin quý giá cho tiến trình đàm phán.
Những người khác trực tiếp làm công tác tuyên truyền, vận động phải thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các buổi míttinh để giải thích cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và diễn biến của hội nghị Paris.
Cùng chia sẻ tình cảm và những kỷ niệm không thể nào quên với bác Bổn, bác Bùi Thanh Tùng, hiện nay là Tổng thư ký UGVF, cho biết bác sang Pháp năm 1967. Từ năm 1968-1972 diễn ra các cuộc đàm phán hai bên và bốn bên, bác thường xuyên hoạt động trong Phong trào Liên hiệp sinh viên Việt Nam tại Pháp (sinh viên sang Pháp khá đông từ năm 1960 đến 1968 nhưng sau đó không sang nữa).
Với thế mạnh của giới sinh viên là trẻ, năng nổ, dễ tiếp cận và Việt Nam khi đó là một điểm nóng trên thế giới, tại các ký túc xá sinh viên, nhiều buổi hội thảo kéo dài cho đến khuya, cùng nhau trao đổi với các bạn bè quốc tế, sinh viên Pháp về tình hình chiến tranh ở Việt Nam.
Bác Tùng không giấu nổi cảm xúc khi kể lại một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất đó là sau chiến thắng oanh liệt bắn rơi rất nhiều máy bay B52 của Mỹ trên Hà Nội cuối tháng 12/1972, đầu tháng 1/1973 Mỹ đã phải trở lại bàn đàm phán, ban đầu là đàm phán bí mật, sau đó là ký kết tại Trung tâm hội nghị quốc tế Kléber vào ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris về hòa bình lịch sử này.
Theo bác Tùng kể lại, ngay từ sáng sớm, rất đông mọi người đứng thành hàng dài suốt hai bên vào cửa ra vào trung tâm với cờ đỏ sao vàng, cờ xanh, đỏ của mặt trận giải phóng Miền nam Việt Nam để phô trương lực lượng, ủng hộ cho hòa bình của Việt Nam và để bày tỏ tình cảm của mình đối với chiến thắng của đất nước.
Những đóng góp thầm lặng
Nhiều bác tuổi đã ngoài 80 không thể nhớ hết và không thể diễn đạt rành mạch những gì mình đã làm và những gì mình cảm nhận được trong suốt thời gian từ 1968 đến 1973, như của cô Thérèse Nguyễn Văn Ký (chúng tôi quen gọi “cô” như vậy theo người miền Nam), nhưng năm nay cô đã hơn 80 tuổi. Hiện nay cô là Chủ tịch UGVF.
Cách đây 40 năm và cũng như bây giờ cô vẫn là bác sỹ. Chỉ có điều khi đó, nhiệm vụ của cô là tham gia chăm sóc sức khỏe cho đoàn hoặc cho bà con Việt kiều mỗi khi ốm đau, cùng những công việc khác như tham gia míttinh, biểu tình vận động quần chúng, hậu cần… cho các đoàn.
Đến nay khi hỏi cô về những gì cô thường đau đáu nhớ về nó sau 40 năm, cô cho biết cô không thể nào quên hình ảnh đường phố Champs Elysées trung tâm thủ đô Paris tung bay cờ đỏ sao vàng khẳng định thắng lợi các cuộc đàm phán về hòa bình ở Việt Nam.
Còn bác Đoàn Hữu Trung, lúc đó làm nhiệm vụ gặp gỡ bà con cũng như Hội, tổ chức các cuộc míttinh ở nơi nào có Việt kiều, gặp đoàn mặt trận giải phóng ở Massy để giúp đỡ họ. Ngoài kỷ niệm riêng - đứa con gái đầu lòng của bác được sinh ra đúng những năm tháng đang diễn ra đàm phán, bác còn luôn nhớ đến thời gian sống và làm việc cùng đoàn miền Nam do bà Bình dẫn đầu.
Trong thời gian được sống cùng với phái đoàn, bác cảm thấy mình có may mắn được gần với cách mạng và coi những người trong phái đoàn như là những chiến sỹ trên mặt trận ngoại giao. /.
Lê Hà-Nguyễn Tuyên-Trung Dũng/Paris (Vietnam+)