Nghệ sỹ Đức Dậu, Trưởng Đoàn nhạc gõ Phù Đổng có một gia tài nhạc khí quý giá. Hơn 25 năm sưu tầm nhạc khí của các dân tộc từ vùng đồng bằng đến vùng cao, gồm các bộ gõ, bộ hơi, bộ gậy, bộ kéo, bộ trống..., điều mà nghệ sỹ Đức Dậu tâm đắc và tự hào nhất là khi có trong tay nhạc cụ nào, ông đều nắm vững kỹ thuật biểu diễn với những giai điệu nguyên gốc, lột tả được “hồn vía” của nhạc cụ ấy.
Gia tài quý giá
“Bảo tàng” thu nhỏ về nhạc cụ dân tộc của nghệ sỹ Đức Dậu khiến ai có dịp đến tham quan đều phải trầm trồ. Trong căn nhà bình thường và đơn giản ở quận Gò Vấp (Thành phố Hồ Chí Minh) là một bộ sưu tập đồ sộ các nhạc cụ dân tộc được trưng bày khắp gian phòng như bộ gõ, bộ hơi, bộ dây...
Nổi bật là bộ sưu tập trống với hàng trăm chiếc lớn nhỏ các loại, từ trống Tây Sơn, trống H’go Êđê, trống cơm, trống chầu, đến trống Cao Lan, trống đế… Nhạc khí cổ nhất là chiếc trống cổ Tây Nguyên (hơn 200 năm tuổi) được bịt bằng ngà voi, da trâu rừng và các loại da của muôn thú núi rừng. Đặc biệt, ông còn có chiếc trống độc mộc với đường kính 1,1m, còn gọi là trống lớn hay trống sấm Tây Nguyên, được bịt bằng da bò tót nguyên tấm.
Còn bộ sưu tập cồng chiêng có khoảng 50 chiếc lớn nhỏ, chiếc lớn nhất gần 200 năm tuổi.
Dắt chúng tôi đi tham quan “bảo tàng,” nghệ sĩ Đức Dậu hồ hởi khoe: “Cách đây mấy tháng, tôi vừa sưu tầm được chiếc tù và Giarai bằng ngà voi hơn 100 năm kết hợp với chiếc đuôi voi trị giá 35 triệu đồng để biểu diễn cùng nhạc cụ." Ông thuyết minh tường tận xuất xứ của từng loại nhạc cụ, từ nguốn gốc đến cách sử dụng.
Bỏ nhiều thời gian, công sức, tiền bạc vào việc sưu tầm nhạc cụ dân tộc nhưng với nghệ sỹ Đức Dậu, hành trình đi thỉnh nhạc cụ về mới là một thách thức lớn đối với người nghệ sỹ, bởi nhạc cụ dân tộc là tâm linh, không phải dùng tiền mà mua được.
Nghệ sĩ Đức Dậu tâm sự: “Khó khăn của người đi sưu tầm không phải là mang tiền đi mua, mà phải thể hiện niềm đam mê nghệ thuật chân chính. Không chỉ mất thời gian thuyết phục, tìm tòi mà mình còn phải ăn, ngủ, tâm sự, hiểu cuộc sống và những tâm tư tình cảm của mỗi dân tộc. Đặc biệt là phải học cách diễn tấu và học tinh thần diễn tấu nhạc khí thì người ta mới chuyển giao cho mình. Có những nhạc sĩ sau 7 đến 10 năm mới được giao cho một nhạc khí, thậm chí có người phải mất mười mấy năm mới được người dạy cho học cách diễn tấu.
Chính vì vậy, mỗi khi “thu phục” được một nhạc cụ, Nghệ sĩ Đức Dậu rất vui và am hiểu tường tận về chúng như chính những người làm ra nhạc khí đó. Mỗi nhạc khí mang trong mình những tính triết lý riêng, chẳng hạn như cái mõ chính là cuộc đời, nhưng chuông là sự giải thoát, tất cả đều nói lên cuộc sống vui, buồn của dân tộc, mỗi nhạc cụ sinh ra đều có câu chuyện, tâm tư tình cảm riêng. Biểu diễn nhạc khí của dân tộc nào phải thể hiện phong cách của dân tộc đó. Đàn Chapi có 13 dây là dụng cụ để nam giới tỏ tình với cô gái. Bộ trống Tây Nguyên là trống sấm cầu trời đất, khích lệ nhuệ khí, tập hợp quân, tiễn đưa người chết… Đó là kinh nghiệm của Nghệ sỉ Đức Dậu từ những lần ăn ở hàng tháng trời ở một số nơi để tìm mua và học cách sử dụng nhạc khí dân tộc.
Đam mê “giữ lửa” âm nhạc dân tộc
Nghệ sỹ Đức Dậu tên thật là Trần Trọng Dậu, sinh năm 1957 tại Hà Nội. Từ nhỏ ông đã bộc lộ niềm say mê văn hóa dân tộc và càng lớn lên, năng khiếu âm nhạc trong ông càng đậm nét. Và niềm đam mê sưu tầm nhạc cụ âm nhạc đã bén rễ từ khi nghệ sỹ Đức Dậu còn là một cậu sinh viên học trống, bộ gõ tại Nhạc viện Hà Nội, rồi học đàn bầu ở trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân đội. Sau này, ông là diễn viên đoàn ca múa nhạc của Bộ Chính trị.
Năm 1986, gia đình ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh. Với tình yêu nhạc cụ dân tộc, ông quyết định thành lập ban nhạc Phù Đổng. Đây cũng là khoảng thời gian mà nghệ sỹ Đức Dậu dành nhiều công sức cho việc sưu tầm nhạc khí dân tộc.
Không chỉ đam mê sưu tầm các loại nhạc cụ dân tộc, nghệ sỹ Đức Dậu cùng Đoàn nhạc gõ Phù Đổng còn tham gia biểu diễn tại các khách sạn, trường đại học, tiểu học để giới thiệu về các giá trị, sự phong phú của âm nhạc dân tộc, đặc biệt là bộ gõ.
“Như cố nhạc sỹ Lưu Hữu Phước từng nói Việt Nam là một trong những quốc gia tỷ phú về về bộ gõ trên thế giới và một trong những quốc gia phong phú về âm nhạc dân tộc. Quả đúng như vậy, từng biểu diễn tại các nhiều trên thế giới, tôi nhận thấy âm nhạc Việt Nam đa dạng và phong phú, không chỉ về nhạc khí mà còn ở cách thể hiện,” nghệ sỹ Đức Dậu bộc bạch.
Đối với ông, nhạc khí là báu vật của quốc gia, do đó, những người gìn giữ phải xác định đây là trách nhiệm, tự hào của dân tộc. Nhạc khí không những thể hiện tâm linh của dân tộc mà còn là tiếng nói quốc hồn, quốc túy và cuộc sống của mỗi dân tộc.
“Là người chuyên đi sưu tầm, nghiên cứu, ứng dụng và thể nghiệm trong cuộc sống về âm nhạc, tôi thấy cuộc sống của mình lúc nào cũng được thăng hoa vì cảm nhận được sâu sắc, cặn kẽ những gì nảy sinh trong nhạc khí, có như vậy thì mới thấy được cái hồn, vía và yêu dân tộc mình hơn,” nghệ sỹ Đức Dậu chia sẻ.
Mỗi một nhạc cụ có cách thể hiện khác nhau và có công phu riêng. Chẳng hạn, nhạc khí dây có những thể hiện phức tạp, toàn là nốt mượn với những nhấn nhá, lúc non lúc già để thể hiện nội dung âm nhạc. Hay bộ gõ phải có sức khỏe, phong cách để thể hiện những thời khắc hào hùng của lịch sử.
Hầu như phong cách thể hiện trong các nhạc cụ âm nhạc Việt Nam đều mạnh, như trống như đánh võ, nhảy múa, ca hát, muốn đánh hay phải nghĩ đến cả một không gian mưa, gió, chim hót, thú hót, tiếng giã gạo trong đêm khuya... thậm chí phải tưởng tượng cả những mùi khói, mùi rơm rạ toát ra từ những không gian đó.
Cái khó nhất khi thể hiện nhạc cụ dân tộc là thể hiện được cái hồn, cái vía của mỗi tác phẩm. Do đó, người nghệ sỹ phải làm sao để người thưởng thức không chỉ nghe mà còn nhìn, ngửi được không gian đó thông qua cách thể hiện của mình.
Nghệ sỹ Đức Dậu luôn tâm niệm: “Một nghệ sỹ dân tộc muốn thể hiện, gìn giữ nhạc khí không chỉ vất vả trong sưu tầm mà phải học không gian của thiên nhiên núi rừng, thổ lộ của từng dân tộc trong cuộc sống, tình yêu, sinh hoạt xã hội, văn hóa… Có những nhạc cụ gồ ghề, đơn giản, thô sơ, thậm chí rất mộc mạc nhưng giá trị văn hóa rất lớn.”
Có lẽ vì vậy mà nhiều người sau khi xem ông biểu diễn từng nhận xét, qua nghệ sỹ Đức Dậu thấy được sự hòa nhập của 54 văn hóa dân tộc./.
Gia tài quý giá
“Bảo tàng” thu nhỏ về nhạc cụ dân tộc của nghệ sỹ Đức Dậu khiến ai có dịp đến tham quan đều phải trầm trồ. Trong căn nhà bình thường và đơn giản ở quận Gò Vấp (Thành phố Hồ Chí Minh) là một bộ sưu tập đồ sộ các nhạc cụ dân tộc được trưng bày khắp gian phòng như bộ gõ, bộ hơi, bộ dây...
Nổi bật là bộ sưu tập trống với hàng trăm chiếc lớn nhỏ các loại, từ trống Tây Sơn, trống H’go Êđê, trống cơm, trống chầu, đến trống Cao Lan, trống đế… Nhạc khí cổ nhất là chiếc trống cổ Tây Nguyên (hơn 200 năm tuổi) được bịt bằng ngà voi, da trâu rừng và các loại da của muôn thú núi rừng. Đặc biệt, ông còn có chiếc trống độc mộc với đường kính 1,1m, còn gọi là trống lớn hay trống sấm Tây Nguyên, được bịt bằng da bò tót nguyên tấm.
Còn bộ sưu tập cồng chiêng có khoảng 50 chiếc lớn nhỏ, chiếc lớn nhất gần 200 năm tuổi.
Dắt chúng tôi đi tham quan “bảo tàng,” nghệ sĩ Đức Dậu hồ hởi khoe: “Cách đây mấy tháng, tôi vừa sưu tầm được chiếc tù và Giarai bằng ngà voi hơn 100 năm kết hợp với chiếc đuôi voi trị giá 35 triệu đồng để biểu diễn cùng nhạc cụ." Ông thuyết minh tường tận xuất xứ của từng loại nhạc cụ, từ nguốn gốc đến cách sử dụng.
Bỏ nhiều thời gian, công sức, tiền bạc vào việc sưu tầm nhạc cụ dân tộc nhưng với nghệ sỹ Đức Dậu, hành trình đi thỉnh nhạc cụ về mới là một thách thức lớn đối với người nghệ sỹ, bởi nhạc cụ dân tộc là tâm linh, không phải dùng tiền mà mua được.
Nghệ sĩ Đức Dậu tâm sự: “Khó khăn của người đi sưu tầm không phải là mang tiền đi mua, mà phải thể hiện niềm đam mê nghệ thuật chân chính. Không chỉ mất thời gian thuyết phục, tìm tòi mà mình còn phải ăn, ngủ, tâm sự, hiểu cuộc sống và những tâm tư tình cảm của mỗi dân tộc. Đặc biệt là phải học cách diễn tấu và học tinh thần diễn tấu nhạc khí thì người ta mới chuyển giao cho mình. Có những nhạc sĩ sau 7 đến 10 năm mới được giao cho một nhạc khí, thậm chí có người phải mất mười mấy năm mới được người dạy cho học cách diễn tấu.
Chính vì vậy, mỗi khi “thu phục” được một nhạc cụ, Nghệ sĩ Đức Dậu rất vui và am hiểu tường tận về chúng như chính những người làm ra nhạc khí đó. Mỗi nhạc khí mang trong mình những tính triết lý riêng, chẳng hạn như cái mõ chính là cuộc đời, nhưng chuông là sự giải thoát, tất cả đều nói lên cuộc sống vui, buồn của dân tộc, mỗi nhạc cụ sinh ra đều có câu chuyện, tâm tư tình cảm riêng. Biểu diễn nhạc khí của dân tộc nào phải thể hiện phong cách của dân tộc đó. Đàn Chapi có 13 dây là dụng cụ để nam giới tỏ tình với cô gái. Bộ trống Tây Nguyên là trống sấm cầu trời đất, khích lệ nhuệ khí, tập hợp quân, tiễn đưa người chết… Đó là kinh nghiệm của Nghệ sỉ Đức Dậu từ những lần ăn ở hàng tháng trời ở một số nơi để tìm mua và học cách sử dụng nhạc khí dân tộc.
Đam mê “giữ lửa” âm nhạc dân tộc
Nghệ sỹ Đức Dậu tên thật là Trần Trọng Dậu, sinh năm 1957 tại Hà Nội. Từ nhỏ ông đã bộc lộ niềm say mê văn hóa dân tộc và càng lớn lên, năng khiếu âm nhạc trong ông càng đậm nét. Và niềm đam mê sưu tầm nhạc cụ âm nhạc đã bén rễ từ khi nghệ sỹ Đức Dậu còn là một cậu sinh viên học trống, bộ gõ tại Nhạc viện Hà Nội, rồi học đàn bầu ở trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân đội. Sau này, ông là diễn viên đoàn ca múa nhạc của Bộ Chính trị.
Năm 1986, gia đình ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh. Với tình yêu nhạc cụ dân tộc, ông quyết định thành lập ban nhạc Phù Đổng. Đây cũng là khoảng thời gian mà nghệ sỹ Đức Dậu dành nhiều công sức cho việc sưu tầm nhạc khí dân tộc.
Không chỉ đam mê sưu tầm các loại nhạc cụ dân tộc, nghệ sỹ Đức Dậu cùng Đoàn nhạc gõ Phù Đổng còn tham gia biểu diễn tại các khách sạn, trường đại học, tiểu học để giới thiệu về các giá trị, sự phong phú của âm nhạc dân tộc, đặc biệt là bộ gõ.
“Như cố nhạc sỹ Lưu Hữu Phước từng nói Việt Nam là một trong những quốc gia tỷ phú về về bộ gõ trên thế giới và một trong những quốc gia phong phú về âm nhạc dân tộc. Quả đúng như vậy, từng biểu diễn tại các nhiều trên thế giới, tôi nhận thấy âm nhạc Việt Nam đa dạng và phong phú, không chỉ về nhạc khí mà còn ở cách thể hiện,” nghệ sỹ Đức Dậu bộc bạch.
Đối với ông, nhạc khí là báu vật của quốc gia, do đó, những người gìn giữ phải xác định đây là trách nhiệm, tự hào của dân tộc. Nhạc khí không những thể hiện tâm linh của dân tộc mà còn là tiếng nói quốc hồn, quốc túy và cuộc sống của mỗi dân tộc.
“Là người chuyên đi sưu tầm, nghiên cứu, ứng dụng và thể nghiệm trong cuộc sống về âm nhạc, tôi thấy cuộc sống của mình lúc nào cũng được thăng hoa vì cảm nhận được sâu sắc, cặn kẽ những gì nảy sinh trong nhạc khí, có như vậy thì mới thấy được cái hồn, vía và yêu dân tộc mình hơn,” nghệ sỹ Đức Dậu chia sẻ.
Mỗi một nhạc cụ có cách thể hiện khác nhau và có công phu riêng. Chẳng hạn, nhạc khí dây có những thể hiện phức tạp, toàn là nốt mượn với những nhấn nhá, lúc non lúc già để thể hiện nội dung âm nhạc. Hay bộ gõ phải có sức khỏe, phong cách để thể hiện những thời khắc hào hùng của lịch sử.
Hầu như phong cách thể hiện trong các nhạc cụ âm nhạc Việt Nam đều mạnh, như trống như đánh võ, nhảy múa, ca hát, muốn đánh hay phải nghĩ đến cả một không gian mưa, gió, chim hót, thú hót, tiếng giã gạo trong đêm khuya... thậm chí phải tưởng tượng cả những mùi khói, mùi rơm rạ toát ra từ những không gian đó.
Cái khó nhất khi thể hiện nhạc cụ dân tộc là thể hiện được cái hồn, cái vía của mỗi tác phẩm. Do đó, người nghệ sỹ phải làm sao để người thưởng thức không chỉ nghe mà còn nhìn, ngửi được không gian đó thông qua cách thể hiện của mình.
Nghệ sỹ Đức Dậu luôn tâm niệm: “Một nghệ sỹ dân tộc muốn thể hiện, gìn giữ nhạc khí không chỉ vất vả trong sưu tầm mà phải học không gian của thiên nhiên núi rừng, thổ lộ của từng dân tộc trong cuộc sống, tình yêu, sinh hoạt xã hội, văn hóa… Có những nhạc cụ gồ ghề, đơn giản, thô sơ, thậm chí rất mộc mạc nhưng giá trị văn hóa rất lớn.”
Có lẽ vì vậy mà nhiều người sau khi xem ông biểu diễn từng nhận xét, qua nghệ sỹ Đức Dậu thấy được sự hòa nhập của 54 văn hóa dân tộc./.
Việt Âu (TTXVN)