Nghi lễ kéo co: Khi các cộng đồng cùng kéo sợi dây đoàn kết gắn bó

Các nhà nghiên cứu và quản lý văn hóa đặt ra vấn đề cần tạo sự kết nối, thắt chặt giao lưu giữa các cộng đồng có thực hành nghi lễ kéo co để tôn vinh sự đa dạng văn hóa.
Nghi lễ kéo co ngồi tại đền Trấn Vũ, Long Biên, Hà Nội. (Ảnh: CCH)

Nghi lễ và trò chơi kéo co được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể Đại diện của nhân loại (Danh sách Đại diện) vào năm 2015 với tư cách là đề cử đa quốc gia của Campuchia, Philippines, Hàn Quốc và Việt Nam tại kỳ họp thứ 10 của Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức tại Namibia.

Ở Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co có mặt ở hầu hết khắp các vùng trung du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, vùng đất quần cư lâu đời của người Việt gắn với nền văn minh lúa nước. Di sản này được thực hành rộng rãi nhất ở các cộng đồng người Kinh các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội và các cộng đồng người Tày, Thái, Giáy tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Tuyên Quang, Lai Châu và Lào Cai.

[UNESCO chính thức vinh danh kéo co là di sản văn hóa thế giới]

Tuy nhiên, các cộng đồng thường thực hành nghi lễ tại địa phương mình, chứ chưa có sự kết nối giữa các vùng cùng sở hữu di sản.

Kéo co là nghi lễ gắn với sự tích và sự kiện lịch sử

Ngày 26/12, tại Bảo tàng Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa (CCH) (Hội Di sản Văn hóa Việt Nam) phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội tổ chức tọa đàm “Nghi lễ và trò chơi kéo co Việt Nam 2020” nhân kỷ niệm 5 năm UNESCO ghi danh nghi lễ và trò chơi kéo co vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Triển lãm ảnh về nghi lễ kéo co tại Việt Nam và các nước cùng có tên trong hồ sơ di sản của UNESCO. (Ảnh: Trương Vị/Vietnam+)

Mục tiêu của sự kiện là nhằm đẩy mạnh phát huy, quảng bá và giới thiệu giá trị của nghi lễ và trò chơi kéo co, đồng thời, tăng cường quan hệ giao lưu trao đổi, sự gắn kết giữa các cộng đồng.

Tham dự tọa đàm, ông Nguyễn Văn Bẩy, 71 tuổi, đại diện cộng đồng Xuân Lai, Sóc Sơn, Hà Nội, tự hào giới thiệu lịch sử và nghi lễ kéo mỏ của địa phương mình, với nhiều đặc thù khác biệt với các hình thức kéo co phổ biến.

“Kéo mỏ cùng với nấu cơm thi, chạy thi và vật thờ là 4 nghi lễ quan trọng trong hội làng Xuân Lai, gắn với sự tích Đức Thánh Bà giúp dân đánh giặc, được tổ chức trong hội đền Vua Bà vào ngày 4 tháng Giêng âm lịch, là lễ hội quan trọng nhất của làng,” ông Bẩy cho biết.

Kéo mỏ là trò kéo co bằng hai cây tre móc ngọn vào nhau. Tre dùng để làm mỏ phải là tre bánh tẻ, có màu xanh biếc, đủ ngọn, đủ lá, trong thân cây tre không được có tổ kiến. Tre chặt về phải làm lễ kính báo với Đức Thánh Bà và xin phép được làm mỏ kéo. Các cụ cao niên trong làng khắc chữ Thịnh, Thái lên thân tre để cầu mong một năm mới an vui và sung túc.

Nếu nghi lễ kéo co ở Xuân Lai dùng tre thì tại thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, người dân lại dùng cây song để kéo.

Nghi lễ kéo co tại thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. (Ảnh: CCH)

Ông Trần Minh, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thị trấn Hương Canh, cho biết hội kéo song ở địa phương diễn ra từ ngày mồng 3 đến mồng 5 tháng Giêng với ý nghĩa tưởng nhớ lục vị Thành hoàng làng, cầu cho mưa thuận gió hòa.

“Kéo song là trò kéo co bằng dây song mật dài 50-70m luồn qua lỗ cột gỗ lim được chôn đứng. Lỗ luồn song to bằng miệng chén, cách mặt đất 80-100cm. Ở giữa có một điểm đỏ. Dây bên nào bị rút qua lỗ quá điểm đỏ 50cm là bên ấy thua, ông Minh giải thích.

Được biết, các song thủ ngồi theo cặp. Cặp song thủ sát cột gỗ có thể đứng, chân đạp vào cọc để tạo lực kéo và ghì. Dây song bị cò cưa lâu trong lỗ cột thường nóng bỏng, bốc khói khét lẹt, đòi hỏi người ở đầu phải dẻo dai và dũng cảm.

“Đây là trò chơi hấp dẫn với người dân địa phương bởi tính tập thể, tính kỷ luật, tình đoàn kết, biểu dương sức mạnh và sự mưu trí, và gợi nhớ quá khứ oai hùng của dân tộc,” ông Minh cho biết.

Nghi lễ này đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân và được thực hành thường xuyên. Tuy nhiên, những năm gần đây, người dân đang phải đối mặt với một khó khăn là cây song mật đạt yêu cầu ngày càng khó kiếm.

“Trước kia dây song được lấy từ rừng Thanh Lanh-Ngọc Bội thuộc dãy Tam Đảo, nay do tình trạng phá rừng mà chúng tôi phải tìm mua ở các vùng thuộc dãy Hoàng Liên Sơn và không dễ gì tìm được cây song đạt tiêu chuẩn về độ dài, độ dày và dẻo dai của thân cây,” ông Minh trải lòng.

Chia sẻ với băn khoăn của ông Minh, ông Ngô Quang Khải, đại diện cộng đồng kéo co ngồi đền Trấn Vũ, Long Biên, Hà Nội, cho biết: “Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện tốt công tác bảo tồn di sản, đặc biệt là việc tuyên truyền cho thế hệ trẻ về truyền thống quê hương. Hàng năm, có khoảng 12.000 học sinh đến tham quan đền và tìm hiểu về kéo co ngồi. Chính quyền địa phương rất quan tâm và hiện đang hỗ trợ xây dựng nhà truyền thống để trình chiếu những hình ảnh và phim tài liệu giới thiệu di sản.” 

Những hình ảnh về nghi lễ kéo co ngồi tại đền Trấn Vũ, Long Biên, Hà Nội. (Ảnh: CCH)

“Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là dây song chỉ dùng được vài ba năm là hỏng và rất khó để tìm được cuộn song thay thế. Đến dự hội thảo, chúng tôi mới biết đến những cộng đồng cũng đang thực hành nghi lễ kéo co và trao đổi với nhau những khó khăn để bảo tồn và phát huy di sản," ông nói.

Mạng lưới tôn vinh sự đa dạng văn hóa

Các cộng đồng đang sở hữu nghi lễ kéo co cho biết họ có nguyện vọng hội tụ trong một mạng lưới để cùng nhau giao lưu và hỗ trợ lẫn nhau trong việc gìn giữ và phát huy di sản. Họ đề xuất thành lập Câu lạc bộ Mạng lưới các cộng đồng di sản kéo co Việt Nam.

Phát biểu tại buổi tọa đàm, phó giáo sư, tiến sỹ Đỗ Văn Trụ, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, cho biết nghi lễ kéo co tồn tại ở khắp cả nước, không chỉ trong cộng đồng người Kinh mà còn trong các dân tộc như Tày, Dáy, mỗi nơi có một sắc thái riêng, tạo nên sự đa dạng văn hóa.

Phó giáo sư, tiến sỹ Đỗ Văn Trụ tham quan triển lãm ảnh về nghi lễ kéo co diễn ra bên lề tọa đàm. (Ảnh: Trương Vị/Vietnam+)

“Kéo co không chỉ là trò chơi hay hoạt động thể thao mà còn là một nghi lễ gắn kết với lịch sử. Khi được UNESCO vinh danh thì di sản này không chỉ là của riêng một cộng đồng hay riêng Việt Nam mà còn là một phần của di sản thế giới, do đó chúng ta cần gìn giữ, phát huy, liên kết các cộng đồng trong nước, từ đó kết nối với các nước khác cũng sở hữu di sản này. Việc thành lập một mạng lưới các cộng đồng thực hành nghi lễ kéo co là vô cùng cần thiết,” tiến sỹ Trụ khẳng định.

“Trực thuộc Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, mạng lưới sẽ đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác, đoàn kết giữa các cộng đồng kéo co và trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa các cộng đồng kéo co trong nước và thế giới,” ông Trụ nói thêm.

Từ Hàn Quốc, ông Park Weon Mo, đại diện Trung tâm Thông tin và Mạng lưới quốc tế về di sản văn hóa phi vật thể khu vực Châu Á-Thái Bình Dương dưới sự bảo trợ của UNESCO (ICHCAP), cũng ủng hộ ý tưởng này.

Ông cho rằng đại dịch đã thay đổi cách chúng ta suy nghĩ và hành động. Trải qua khó khăn, mọi người đều hiểu tầm quan trọng của sự đoàn kết và thích nghi.

“Kéo co Việt Nam đang có sức lan tỏa mạnh mẽ, mọi người cùng kéo sợi dây thể hiện sự đoàn kết và gắn bó giữa các thành viên trong cộng đồng, điều đó cần được lan tỏa mạnh mẽ và sâu rộng hơn,” ông Park cho biết./.

Ông Nguyễn Văn Bẩy, đại diện cộng đồng Xuân Lai, Sóc Sơn, Hà Nội, giới thiệu nghi lễ kéo mỏ:

 
(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục