Hội thảo quốc tế về “Nghệ thuật Bài chòi dân gian Việt Nam và những hình thức nghệ thuật tương đồng trên thế giới,” tổ chức tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong 2 ngày 13-14/1.
Hội thảo đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề, ở nhiều khía cạnh lý thú, những nét đặc trưng độc đáo và đặc sắc của nghệ thuật Bài chòi dân gian miền Trung, xứng đáng được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, cần được bảo tồn, phát huy.
Sự hình thành và phát triển
Tiến sỹ Nguyễn Bình Định, Viện trưởng Viện Âm nhạc Việt Nam khẳng định: Nghệ thuật Bài chòi dân gian là một trong những sáng tạo đặc sắc về văn hóa phi vật thể của người Việt - tộc Kinh ở Trung Bộ Việt Nam.
Nghệ thuật Bài chòi được bắt nguồn từ hội chơi Bài chòi, một hình thức văn hóa giải trí thường được tổ chức vào những ngày đầu năm mới tại các tỉnh miền Trung (từ Quảng Bình đến Khánh Hòa).
Về nguồn gốc, lịch sử ra đời của loại hình nghệ thuật này đã có một số tài liệu của người Việt Nam và nước ngoài đề cập ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. Trong cuốn Larouss musicale xuất bản tại Paris- Pháp năm 1928 của tác giả G.L Bouvier, nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học người Pháp gốc Ba Lan đã giành riêng một chương có tiêu đề "Những bài hát phổ thông của người An Nam” để nói về Bài chòi.
Ông cho rằng Bài chòi được hình thành và phát triển sau những năm Nam tiến (1470) nhưng lại không đưa ra dẫn chứng để chứng minh. Sau này, một số nhà nghiên cứu của Quảng Bình và Bình Định đã dựa vào những câu chuyện truyền miệng trong dân gian để đưa ra giả thuyết rằng Đào Duy Từ (1571-1643), một nhà Nho sống ở giai đoạn cuối thời nhà Lê, đầu thời nhà Nguyễn là người đã sáng tạo và truyền dạy lối chơi Bài chòi ở vùng đất này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa đủ chứng cứ để chứng minh giả thuyết đó là đúng.
Còn theo giáo sư-tiến sỹ Trần Quang Hải, quốc tịch Pháp, đến nay chưa xác định được Bài chòi có nguồn gốc từ lúc nào. Ông nêu ra giả thuyết: Theo lời kể của ông Phan Bình Lang (sinh năm 1910), nguồn gốc của Bài chòi là vào thời ông Đào Duy Từ ở ngoài Bắc vào Bình Định khai khẩn đất hoang từ năm 1471.
Lúc đó người ít, việc trồng trọt thường bị thú rừng phá hoại nên người dân phải dựng những chòi cao hơn 2m, vững chắc, mỗi khi có thú rừng thì khua trống, mõ để thú rừng hoảng chạy. Khi nhàn rỗi, để khuây khỏa, người dân chế ra 2 ống tre căng dây và bịt một đầu bằng da ếch để làm ống loa nói chuyện với nhau từ chòi này sang chòi khác, hát đối đáp qua những câu ca dao, tạo thành loại hình “hát ống.”
Ông Đào Duy Từ đã phát triển từ “hát ống” thành trò chơi “đánh bài chòi” với những lá bài và lập thành hệ thống qui củ để giải trí.
Cũng từ đó cho đến trước năm 1945, hội chơi Bài chòi phát triển, nhất là ở vùng Nam Trung Bộ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nghệ thuật Bài chòi được sử dụng khá nhiều, tham gia tích cực vào việc động viên đồng bào, chiến sỹ, đả kích kẻ thù, ca ngợi những tấm gương đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc; trong thời gian này có người còn gọi là Bài chòi kháng chiến.
Giai đoạn từ sau năm 1975 đến 1990, nghệ thuật Bài chòi bị mai một và đứng trước nguy cơ bị lãng quên. Vào cuối năm 1990, nghệ thuật Bài chòi dần được phục hồi và đặc biệt từ năm 2010 trở lại đây, khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chủ trương phục hồi thì loại hình nghệ thuật này đã nhanh chóng được vực dậy, được đông đảo người dân 9 tỉnh, thành ở Trung Bộ tổ chức hội chơi Bài chòi vào các dịp lễ Tết, đầu năm mới.
Tại hội thảo, sau khi thảo luận trên cơ sở các giả thuyết về sự ra đời của nghệ thuật Bài chòi mà các nhà khoa học trong và ngoài nước nêu ra có sự trùng lặp, sự hình thành, phát triển và sức lan tỏa của loại hình nghệ thuật này đã gắn bó sâu sắc trong đời sống của người dân Trung bộ nên có lẽ nghệ thuật Bài chòi đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ XVI.
Nét đặc trưng độc đáo và đặc sắc
Theo tiến sỹ Nguyễn Bình Định, xét về giá trị nghệ thuật, Bài chòi là loại hình vừa mang tính trình diễn, vừa mang tính thực hành xã hội, công chúng cùng một lúc được thưởng ngoạn nhiều thể loại, nhiều thành phần nghệ thuật khác nhau như dân ca, thơ, trò diễn, trích đoạn sân khấu, chuyện kể và diễn tấu nhạc cụ truyền thống…
Cái hay riêng là ở chỗ kể chuyện nhưng không giống như lối kể chuyện thông thường mà có động tác, nhạc cụ phụ họa; diễn trích đoạn sân khấu nhưng không giống như tuồng và hát bội, vì không có sân khấu, không có phông cảnh, không dùng y phục biểu diễn chuyên nghiệp mà chỉ với bộ quần áo thông thường. Đặc biệt, chỉ có một người mà đóng được nhiều vai khác nhau nhưng lại đạt hiệu quả thể hiện tự nhiên, gần gũi, dễ hiểu mà sâu sắc - đó là nghệ thuật độc diễn trong Bài chòi.
Cùng với tài tức hứng lời thơ tại chỗ, lối độc diễn tự tin và hồn nhiên chính là nét đặc trưng độc đáo và đặc sắc của nghệ thuật Bài chòi dân gian, là điểm hoàn toàn khác biệt so với các loại hình nghệ thuật khác.
Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Thụy Loan cho biết, về nét độc đáo đặc sắc bởi sắc thái tuồng và sự thẩm thấu những yếu tố tuồng trong nghệ thuật Bài chòi hoàn toàn khác với sắc thái tuồng và sự thâm nhập của yếu tố tuồng trong “cải lương tuồng tầu.” Nó cũng không giống sự thâm nhập của yếu tố tuồng trong "chèo văn minh” trước đó hoặc trong các loại hình nghệ thuật khác ở thời đại hiện nay.
Trong nghệ thuật Bài chòi, yếu tố tuồng là một trong những tế bào chính yếu cấu thành, thậm chí là tố chất nằm ngay trong lòng tế bào của nghệ thuật Bài chòi từ buổi ban sơ của nó, đặc biệt là nghệ thuật Bài chòi Bình Định.
Nghệ nhân, Nghệ sỹ ưu tú Nguyễn Kiềm, 80 tuổi (nguyên là Phó trưởng Đoàn ca kịch Bài chòi Bình Định) chia sẻ, từ lúc 6 tuổi đã được ông bà, cha mẹ dạy nghệ thuật Bài chòi. Qua quá trình học hỏi, biểu diễn, ông cho rằng nghệ thuật Bài chòi đã phát huy hiệu quả xuất phát từ “cung-cầu,” đánh dấu bước phát triển phong phú rực rỡ mang đặc trưng nghệ thuật Bài chòi dân gian đúng nghĩa.
Ông Hồ Quốc Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định khẳng định: Bài chòi - một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc đã hình thành và phát triển trong quá trình lao động sản xuất, giao lưu văn hóa của người Việt vào định cư, khai phá vùng đất Đàng trong từ cách đây nhiều thế kỷ và đã ăn sâu, bám rễ vào tâm hồn và không gian sống của người dân các tỉnh Trung Bộ.
Các làn điệu, lời ca bình dị, ngọt ngào của Bài chòi đã đi vào lòng người và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân ở khu vực miền Trung nói chung, tỉnh Bình Định nói riêng.
Xứng tầm Di sản văn hóa thế giới
Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tại một số nơi trên thế giới cũng có những dạng độc diễn tương đồng như nghệ thuật Bài chòi dân gian Việt Nam, chẳng hạn như Pansori ở Hàn Quốc, Cổ từ ở Trung Quốc, Hát nói ở Algeria và Ấn Độ…
Tham luận tại hội thảo, giáo sư-tiến sỹ Yves Defrance (Pháp) đã phân tích về sự độc đáo của nghệ thuật Bài chòi: "Thật thích thú khi chúng tôi tìm thấy ở Bài chòi có những điểm chung với nghệ thuật truyền thống Âsiklik của những người hát thơ cổ của Thổ Nhĩ Kỳ, những người di cư từ cộng đồng này đến cộng đồng khác... Sự thực, tính độc diễn trong Bài chòi có điểm chung với loại hình truyền thống ở châu Á như Pansori của Hàn Quốc… Bài chòi xứng đáng để tất cả chúng ta ủng hộ được ghi danh vào danh sách Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại."
Tiến sỹ Seong Yong Park, Trợ lý Tổng giám đốc Văn phòng Dự án chiến lược ICHCAP của Hàn Quốc, trong bài tham luận với nhan đề "Những di sản văn hóa phi vật thể của Hàn Quốc tương tự như Bài chòi và sự quan trọng của cộng đồng di sản" nêu rõ: Những di sản của Hàn Quốc như Baltal, Jindo dasiraegi và Pansori, những loại hình nghệ thuật Hàn Quốc có những điểm giống nghệ thuật Bài chòi Việt Nam; trong đó nghệ thuật Pansori đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hội thảo lần này mang tới cơ hội để chúng ta cùng thảo luận một cách sâu sắc và đóng góp xây dựng những vấn đề về bảo tồn và phát huy di sản văn hoá phi vật thể thế giới, trong đó có Bài chòi; đồng thời tin tưởng các di sản văn hoá phi vật thể sẽ được truyền lại tới muôn đời sau nếu các nỗ lực của chúng ta trở thành các hành động thực tiễn.
Qua hội thảo lần này, các ý kiến và tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước sẽ làm sáng tỏ hơn nhiều vấn đề về sự hình thành, sức lan tỏa và phát triển cùng những giá trị độc đáo và đặc sắc của nghệ thuật Bài chòi, từ đó làm tiền đề để các cơ quan liên quan xây dựng bộ hồ sơ khoa học “Nghệ thuật Bài chòi miền Trung Việt Nam” trình UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại./.