Ngày 8/11, tại Hà Nội, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA Bình Định), Hội Mỹ nghệ và Chế biến Gỗ Thành phố Hồ Chí Minh (HAWA), Hiệp hội Chế biến gỗ tỉnh Bình Dương (BIFA) cùng Tổ chức Forest Trends tổ chức hội thảo “Thực trạng xuất nhập khẩu và chuyển dịch FDI trong ngành gỗ.”
Đầu tư nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực chế biến gỗ tăng rất nhanh đặc biệt kể từ năm 2018 trở lại đây. Trong số các quốc gia đầu tư, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là quốc gia có số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư lớn.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ kế hoạch và Đầu tư), số doanh nghiệp ngành gỗ có vốn đầu tư nước ngoài FDI đăng ký mới trong 9 tháng năm 2019 là 67 dự án, tương đương cả năm 2018, với tổng số vốn đầu tư trên 581 triệu USD.
Lượng vốn đăng ký của các dự án mới trong 9 tháng cao hơn 2,3 lần so với tổng vốn đăng ký cả năm 2018.
Sự mở rộng đầu tư FDI trên cả 3 hình thức là các dự án đầu tư mới, dự án tăng vốn mở rộng sản xuất và góp vốn thông qua hình thức mua cổ phần. Vốn đăng ký trung bình dự án mới 9 tháng là 8,7 triệu USD.
Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu trong danh sách các quốc gia đầu tư vào lĩnh vực chế biến gỗ Việt Nam với 40 dự án, chiếm gần 60% trong tổng số dự án đầu tư.
Theo ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends, các doanh nghiệp FDI đang đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ Việt Nam.
Năm 2018 kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt gần 3,96 tỷ USD, chiếm 46,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành.
[Bài 2: Hình thức đầu tư mới: FDI xuyên biên giới không góp vốn]
Trong 9 tháng năm 2019, số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng lên con số 565, với tổng kim ngạch gần 3,4 tỷ USD, tương đương 46,6% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ.
Theo ông Tô Xuân Phúc, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung có thể tạo ra những cơ hội mới cho việc mở rộng đầu tư FDI vào lĩnh vực chế biến gỗ Việt Nam, bao gồm cả mở rộng về số lượng và kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, gian lận thương mại cũng có thể diễn ra dưới hình thức “đầu tư chui” hay “đầu tư núp bóng” với doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam.
Theo đó, doanh nghiệp có thể thuê nhà máy, nhà xưởng của Việt Nam, nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào sơ chế rồi xuất khẩu sản phẩm với nhãn mác Việt Nam.
Đây là những rủi ro rất lớn cho ngành gỗ của Việt Nam. Vì vậy, việc kiểm soát rủi ro trong gian lận thương mại là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu của ngành.
Bà Trần Thị Thu Hương, Giám đốc Trung tâm xác nhận chứng từ thương mại-Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết là một trong những ngành có nguy cơ gian lận thương mại nên thời gian qua việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) của đơn vị cho các doanh nghiệp gỗ đang chậm hơn so với các mặt hàng khác.
Đặc biệt, các doanh nghiệp lần đầu tiên xin cấp C/O sẽ phải chờ lâu hơn nữa. Bởi, để kiểm soát, ngăn chặn việc gian lận thương mại, đơn vị sẽ phải đi thực tế kiểm tra cơ sở sản xuất, từ nhà xưởng, trang thiết bị máy móc, để xem cơ sở có đủ năng lực sản xuất sản phẩm đó hay không mới cấp C/O.
Theo ông Tô Xuân Phúc, Chính phủ thực hiện kiểm soát rủi ro trong FDI có thể bắt đầu bằng việc rà soát cả 3 loại hình đầu tư, bao gồm đầu tư mới, các dự án tăng vốn và dự án mua cổ phần.
Cơ quan chức năng nên ưu tiên rà soát các dự án đầu tư mới, có quy mô nhỏ, đặc biệt là 15 dự án đầu tư mới năm 2019, với vốn đăng ký dưới 1 triệu USD/dự án.
Để thu thập thông tin về tình trạng “đầu tư chui,” “đầu tư núp bóng,” các hiệp hội gỗ địa phương là một trong những kênh thông tin quan trọng và hữu hiệu để thu thập thông tin về các hình thức đầu tư này nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý.
Ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết, tăng trưởng trong xuất khẩu gỗ đang có sự phát triển ổn định bền vững liên tục.
Hai tháng cuối năm là thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu để ngành có thể đạt kim ngạch xuất khẩu 11 tỷ USD. Tuy nhiên, ngành cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ về gian lận thương mại và chỉ cần xảy ra đối với một đơn vị cũng tức là xảy ra với ngành.
Ông Nguyễn Tôn Quyền cho rằng, Việt Nam luôn kêu gọi thu hút đầu tư FDI và nhờ nguồn đầu tư này các ngành có thêm nguồn vốn, phát huy thị trường, mở rộng thị phần, học hỏi về quản lý, công nghệ tiến bộ…
Thu hút FDI tốt nhưng cũng cần nhiều sửa đổi, vì chất lượng và hiệu quả thu hút nguồn vốn này chưa cao. Quy mô vốn đầu tư FDI trong ngành gỗ rất thấp, còn nhiều khó khăn trong liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI./.