Ngành năng lượng tái tạo Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua và xét về mọi mặt thì đây xu thế không thể đảo ngược trên thị trường.
Đặc biệt, nếu có định hướng đúng, các quốc gia có thể huy động được nguồn lực lớn cho phát triển hạ tầng thiết yếu, góp phần thúc đẩy kinh tế trong tương lai.
Tại Việt Nam, muốn giữ vững tốc độ phát triển và tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc được dự báo giai đoạn 2016-2020 là 10,6%/năm ở giai đoạn 2016-2020 và 8,5% ở giai đoạn 2021-2025.
Còn theo Bộ Công thương, nhu cầu năng lượng cho năm 2020 phải đạt 235 tỷ kWh điện và đến năm 2025 cần 352 tỷ kWh. Do đó, mức tăng trưởng nguồn điện cần đạt khoảng 60.000 MW công suất nguồn trong năm 2020 và sẽ còn tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, với bối cảnh nguồn điện than không còn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển do tác động nguy hại đến môi trường, điện hạt nhân đã dừng, thủy điện không còn nhiều dư địa và nguồn điện khí hóa lỏng cần thời gian dài để phát triển, thì sự phát triển của nguồn năng lượng tái tạo đang là một chiến lược cần được ưu tiên hàng đầu.
Điển hình, điện gió và điện Mặt Trời đang cho thấy là giải pháp giúp tăng nhanh nguồn cung và giảm sự thiếu hụt về điện năng.
[Ninh Thuận: Đóng điện thành công Trạm biến áp nhà máy điện Mặt Trời]
Tính đến hết tháng 9/2020, tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo đạt 5,5 GW, gồm: điện Mặt Trời, điện gió, điện sinh khối... chiếm khoảng 11,2% tổng công suất lắp đặt toàn quốc.
Các dự án điện Mặt Trời đã xây dựng có thể thấy rằng, suất đầu tư trung bình đối với điện Mặt Trời hiện nay ở Việt Nam là 1.038 USD/kWp (tương đương trên 23 triệu đồng/1 kWp, thấp hơn bất cứ suất đầu tư nguồn điện nào.
Quy hoạch điện quốc gia và cấp tỉnh với tổng công suất phát điện đến năm 2020 là 6.100 MW và năm 2030 là 7.200 MW. Ngoài ra, còn 221 dự án đang chờ phê duyệt, công suất đăng ký hơn 14.330 MW.
Ghi nhận ý kiến một số chuyên gia cho rằng, tấm pin năng lượng Mặt Trời hoàn toàn có thể tái chế với tỷ lệ rất cao và điều này không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế, môi trường mà còn một lần nữa khẳng định điện Mặt Trời là nguồn năng lượng sạch.
Ngoài ra, tấm pin Mặt Trời là những sản phẩm “double green,” sau nhiều năm tạo ra điện sạch từ quang năng có thể tiếp tục được tái chế để làm ra những tấm pin mới hoặc sử dụng trong các ngành công nghiệp khác.
Việc tái chế tấm pin Mặt Trời sẽ giúp ngành công nghiệp điện Mặt Trời ngày càng phát triển. Dự kiến đến năm 2050, sẽ có 2 tỷ tấm pin năng lượng Mặt Trời mới được sản xuất hoàn toàn từ nguồn vật liệu tái sử dụng này.
Điều này có nghĩa là sẽ có 630 GW năng lượng sạch được sản xuất nhờ nguồn vật liệu tái chế. Ngoài ra, các nhà máy tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời cũng tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho con người.
Trên thế giới, EU là khu vực đầu tiên ban hành các luật về phế thải điện Mặt Trời (Thông tư WEEE). Luật này bao gồm các vấn đề như thu gom, tái chế, tái sử dụng các tấm pin Mặt Trời phế thải, trách nhiệm của các nhà sản xuất, cung cấp tấm pin.
Với các tấm pin Mặt Trời không còn sử dụng, EU quy định tỷ lệ tái chế /tái sử dụng là 85%/80%. Anh, Đức, Séc... là những quốc gia tiên phong thực hiện thông tư này.
Hiện nay, đã có nhiều nhà máy xử lý các tấm pin Mặt Trời cũ với tỷ lệ tái chế lên đến 96%. Đồng thời, khi tái chế 1 tấn tấm pin Mặt Trời tương đương việc tránh được 1.2 tấn CO2 thải ra.
Nhiều quốc gia cũng đang nghiên cứu các công nghệ để việc tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời ngày càng hiệu quả, chi phí thấp, rút ngắn thời gian tái chế...
Đơn cử, sau khi mở nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời tại Rousset, miền Nam nước Pháp năm 2018 và là nhà máy tái chế tấm pin Mặt Trời đầu tiên của châu Âu, vừa mới đây Veolia công bố mỗi năm nhà máy này có thể tái chế được 40 tấn tấm pin Mặt Trời và dự kiến vào năm 2020 nhà máy này sẽ tái chế lên tới 4.000 tấn vào năm 2022.
Trong một nghiên cứu về tái chế tấm pin năng lượng Mặt Trời, Cơ quan năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) cho rằng, về lâu dài, việc xây dựng các nhà máy tái chế PV chuyên dụng rất có ý nghĩa. IRENA ước tính các vật liệu thu hồi có thể trị giá 450 triệu USD vào năm 2030 và hơn 15 tỷ USD vào năm 2050. |