Theo tục lệ, đền thờ được dựng lên để ghi nhớ công ơn của một anh hùng có côngvới đất nước hay một người có công đức với địa phương theo truyền thuyết dângian. Tạo nên một Hà Nội mang danh nghìn năm văn hiến, không thể thiếu hàngnghìn ngôi đền linh thiêng.
Theo biến thiên của thời gian nhiều ngôi đền chỉ để lại những “vết tích” truyềnthuyết kì lạ, nổi tiếng có, vô danh có nhưng tựu chung đều hướng con người tatới cái chân, thiện, mĩ. Dưới đây là một số ngôi đền như thế.
Đền nghề không thờ tổ nghề
Chuyện thờ tổ nghề hầu như nơi nào cũng có, nhưng thần nhân trong ngôi đền ĐôngHương còn gọi là đền Hàng Trống này không phải là tổ nghề hát ca trù mà chỉ làmột đào nương nhỏ bé, nhưng nàng có một tấm lòng nhân nghĩa hơn người.
Đền nằm trên gác hai của số nhà 82 phố Hàng Trống, Hà Nội. Theo văn bia và những cụ già quanh đền kể lại, mộtthời, đền là nơi trưng bày dòng tranh Hàng Trống nổi tiếng.
Ngôi đền khi xưa cũng đã vài lần đã tổ chức hội thi đàn đáy, thu hút sự có mặtcủa nhiều thầy đàn các nơi như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội…
Mảnh đất của đền trước đây nguyên là thôn Cựu Lâu, kéo dài ra tới khu vực phốHàng Khay, Tràng Tiền bây giờ. Chuyện kể rằng một ca nương có tiếng của giáphường Cựu Lâu kết duyên với một vị quan thái y, và sinh được một cô con gái,đặt tên là Nguyễn Thị Huệ. Huệ có tài ca hát, dung nhan sắc nước hương trời, lạicó tư chất thông minh, nàng theo cha học hành làu thông kinh sử. Giọng hát vàtiếng phách của nàng đã thấp thoáng trong các ngõ xóm bên mặt hồ lau lách… Danhtiếng của nàng vang dội khắp kinh thành, gây nên những vương vấn, bâng khuângkhiến bao kẻ ngẩn ngơ ôm mộng.
Năm 21 tuổi, một đêm hát ở phủ chúa, nàng lọt vào mắt xanh của chúa Trịnh Cương.Nhà Chúa cho vời nàng vào cung và rất được sủng ái, ban cho nàng danh hiệu NgọcKiều phu nhân.
Một năm nọ, kinh thành Thăng Long bị một đại dịch, theo phương thuốc của chatruyền lại, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc và cứu được rất nhiều người.
Về sau, nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống yêntĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Vì những việc làm nhân nghĩa,nàng đã được nhân dân lập đền thờ với biệt hiệu Đông Hương thần nữ ngay tại mảnhđất trước đây chúa Trịnh Cương ban cho gia đình nàng, nay là số 82 phố HàngTrống.
Danh tính, cuộc đời của nàng còn có một truyền thuyết khác. Nàng ca nương NguyễnThị Huệ bị hiến vào phủ chúa. Việc nhà chúa mê say nhan sắc chim sa cá lặn vàtiếng hát trong trẻo của nàng làm cho bà Vương phi ghen tức. Bà Vương phi đãtìm cách thủ tiêu cô đào Huệ bằng cách dụ nàng uống rượu có pha mật công.
Nàng chết oan nhưng hồn không thể siêu thoát, nên về báo oán khiến bà Vương phitrở nên điên dại. Thấy nàng hiển linh, dân chúng tiếc thương lập đền thờ cúng vàcũng để nói lên rằng, tài hoa nhan sắc là bất tử.
Về lịch sử ngôi đền, có rất nhiều những câu chuyện khác nhau và cả sự hoài nghivề cuộc đời nàng Huệ (có sử liệu viết nàng sống ở thời Lê, có công diệt giặcMinh…). Thời gian càng xa càng phủ lên cuộc đời nàng những làn sương mù huyềnbí.
Trong đền còn một bức hoành phi viết về nàng Huệ: “Khiến thiên chi muội” tức“sánh với em gái của trời”.
Không biết những câu chuyện truyền miệng thực hư thế nào nhưng gian miếu thờ quanh năm thơm ngát hương hoa.
Ông thần yêu trẻ con đi lạc
Tọa lạc ngay mặt tiền của con phố Hàng Bông sầm uất (số 2 Hàng Bông) và trêntầng hai của một tiệm cà phê. Và chẳng mấy ai để ý đây là một ngôi đền vì nó quánhỏ bé. Diện tích đền chật hẹp chưa đầy 4m2. Nhiều người sửng sốt khi biết ngàyxưa đây từng là một cái đình lớn. Đình có tên Kim Cổ rộng đến hơn 1ha của thônKim Cổ, huyện Thọ Xương khi xưa.
Thần nhân trong đền là ông tổ nghề tráng gương, dân gian còn gọi ông với cái têntrìu mến “ông Nhân Hậu” hay ông “ Phúc Hậu” vì ông là “chuyên gia” tìm trẻ đilạc về cho gia đình chúng.
Đền chỉ mở cửa hai lần mỗi tháng. Từ ngày 29 cuối tháng đến mồng 1 đầu tháng vàlần thứ hai 14 đến 16 (âm lịch). Ngày thường vào mỗi sáng, bà từ già Nguyễn ThịKim Quy (77 tuổi) lại lụi cụi sang đền quét dọn và lên hương. Xong việc, bà Quylặng lẽ đi về. Cửa đền lại đóng im ỉm cho đến những ngày lễ tiếp theo.
Những ngày lễ, đền chen chúc người. Họ cầu ông thần ngụ ở đền về nhiều đường,công danh, tài lộc, sức khỏe... Và đặc biệt kì lạ, có rất nhiều người Hà Nội đếnđền cầu xin ông Phúc Hậu chỉ đường tìm đứa trẻ đi lạc: “Xin cụ tổ hiền gia ânlàm phúc giúp trẻ con hồi tâm chuyển ý, biết chọn lối sáng mà thoát ra khỏi chốnu mê trở về nhà”.
Chị Xuyên ngồi bán đồ lưu niệm cho khách nước ngoài, hơn chục năm ngồi ở cổngđền kể, nhiều gia đình con bỏ đi hàng tháng trời, tìm trong tuyệt vọng, người tamách đến đền khấn ông Phúc Hậu để mong tìm con, cũng có gia đình sau khi thấycon đến đây vái tạ.
Ngoài đền treo mấy tấm bảng sơn son thếp vàng: “Phúc hậu linh từ” và “Thiện phúclộc”, đủ thấy vị thần nhân trong đền rất đỗi hiền từ.
Theo những sắc phong và tấm bia đá của đền ghi lại thì thần có danh tính là TrầnNhuận Đình sống ở thời nhà Trần (thế kỷ13-14). Ông đỗ tiến sĩ và ra làm quantriều Trần. Có thời gian, ông phụng mệnh nhà Vua sang Tàu học nghề tráng gương.Ông đem kĩ thuật tráng gương về nước truyền dạy cho nhân dân và trở thành ông tổnghề tráng gương ở Việt Nam.
Tương truyền khi còn sống, ông biết mọi ngóc ngách của kinh thành Thăng Longxưa, biết cả những xó xỉnh mà lũ trẻ hay tìm đến. Khi gia đình nào có con cái đilạc thường tìm đến ông. Không nề hà, ông thường đích thân đi tìm đứa bé.
Để biết ơn công lao của ông, thôn Kim Cổ lập đền thờ sau khi ông mất. Sau này,những gia đình có con cái đi lạc thường đến đền Nhân Hậu để cầu khấn. Trong đềncòn lưu ba đạo sắc phong vị thần Nhân Hậu vào các đời vua Thành Thái, Duy Tân vàKhải Định./.
Theo biến thiên của thời gian nhiều ngôi đền chỉ để lại những “vết tích” truyềnthuyết kì lạ, nổi tiếng có, vô danh có nhưng tựu chung đều hướng con người tatới cái chân, thiện, mĩ. Dưới đây là một số ngôi đền như thế.
Đền nghề không thờ tổ nghề
Chuyện thờ tổ nghề hầu như nơi nào cũng có, nhưng thần nhân trong ngôi đền ĐôngHương còn gọi là đền Hàng Trống này không phải là tổ nghề hát ca trù mà chỉ làmột đào nương nhỏ bé, nhưng nàng có một tấm lòng nhân nghĩa hơn người.
Đền nằm trên gác hai của số nhà 82 phố Hàng Trống, Hà Nội. Theo văn bia và những cụ già quanh đền kể lại, mộtthời, đền là nơi trưng bày dòng tranh Hàng Trống nổi tiếng.
Ngôi đền khi xưa cũng đã vài lần đã tổ chức hội thi đàn đáy, thu hút sự có mặtcủa nhiều thầy đàn các nơi như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội…
Mảnh đất của đền trước đây nguyên là thôn Cựu Lâu, kéo dài ra tới khu vực phốHàng Khay, Tràng Tiền bây giờ. Chuyện kể rằng một ca nương có tiếng của giáphường Cựu Lâu kết duyên với một vị quan thái y, và sinh được một cô con gái,đặt tên là Nguyễn Thị Huệ. Huệ có tài ca hát, dung nhan sắc nước hương trời, lạicó tư chất thông minh, nàng theo cha học hành làu thông kinh sử. Giọng hát vàtiếng phách của nàng đã thấp thoáng trong các ngõ xóm bên mặt hồ lau lách… Danhtiếng của nàng vang dội khắp kinh thành, gây nên những vương vấn, bâng khuângkhiến bao kẻ ngẩn ngơ ôm mộng.
Năm 21 tuổi, một đêm hát ở phủ chúa, nàng lọt vào mắt xanh của chúa Trịnh Cương.Nhà Chúa cho vời nàng vào cung và rất được sủng ái, ban cho nàng danh hiệu NgọcKiều phu nhân.
Một năm nọ, kinh thành Thăng Long bị một đại dịch, theo phương thuốc của chatruyền lại, nàng đã tự bỏ tiền cân thuốc và cứu được rất nhiều người.
Về sau, nàng xuống tóc đi tu ngay trong chùa làng Cựu Lâu, sống cuộc sống yêntĩnh như vậy cho đến khi qua đời, thọ 71 tuổi. Vì những việc làm nhân nghĩa,nàng đã được nhân dân lập đền thờ với biệt hiệu Đông Hương thần nữ ngay tại mảnhđất trước đây chúa Trịnh Cương ban cho gia đình nàng, nay là số 82 phố HàngTrống.
Danh tính, cuộc đời của nàng còn có một truyền thuyết khác. Nàng ca nương NguyễnThị Huệ bị hiến vào phủ chúa. Việc nhà chúa mê say nhan sắc chim sa cá lặn vàtiếng hát trong trẻo của nàng làm cho bà Vương phi ghen tức. Bà Vương phi đãtìm cách thủ tiêu cô đào Huệ bằng cách dụ nàng uống rượu có pha mật công.
Nàng chết oan nhưng hồn không thể siêu thoát, nên về báo oán khiến bà Vương phitrở nên điên dại. Thấy nàng hiển linh, dân chúng tiếc thương lập đền thờ cúng vàcũng để nói lên rằng, tài hoa nhan sắc là bất tử.
Về lịch sử ngôi đền, có rất nhiều những câu chuyện khác nhau và cả sự hoài nghivề cuộc đời nàng Huệ (có sử liệu viết nàng sống ở thời Lê, có công diệt giặcMinh…). Thời gian càng xa càng phủ lên cuộc đời nàng những làn sương mù huyềnbí.
Trong đền còn một bức hoành phi viết về nàng Huệ: “Khiến thiên chi muội” tức“sánh với em gái của trời”.
Không biết những câu chuyện truyền miệng thực hư thế nào nhưng gian miếu thờ quanh năm thơm ngát hương hoa.
Ông thần yêu trẻ con đi lạc
Tọa lạc ngay mặt tiền của con phố Hàng Bông sầm uất (số 2 Hàng Bông) và trêntầng hai của một tiệm cà phê. Và chẳng mấy ai để ý đây là một ngôi đền vì nó quánhỏ bé. Diện tích đền chật hẹp chưa đầy 4m2. Nhiều người sửng sốt khi biết ngàyxưa đây từng là một cái đình lớn. Đình có tên Kim Cổ rộng đến hơn 1ha của thônKim Cổ, huyện Thọ Xương khi xưa.
Thần nhân trong đền là ông tổ nghề tráng gương, dân gian còn gọi ông với cái têntrìu mến “ông Nhân Hậu” hay ông “ Phúc Hậu” vì ông là “chuyên gia” tìm trẻ đilạc về cho gia đình chúng.
Đền chỉ mở cửa hai lần mỗi tháng. Từ ngày 29 cuối tháng đến mồng 1 đầu tháng vàlần thứ hai 14 đến 16 (âm lịch). Ngày thường vào mỗi sáng, bà từ già Nguyễn ThịKim Quy (77 tuổi) lại lụi cụi sang đền quét dọn và lên hương. Xong việc, bà Quylặng lẽ đi về. Cửa đền lại đóng im ỉm cho đến những ngày lễ tiếp theo.
Những ngày lễ, đền chen chúc người. Họ cầu ông thần ngụ ở đền về nhiều đường,công danh, tài lộc, sức khỏe... Và đặc biệt kì lạ, có rất nhiều người Hà Nội đếnđền cầu xin ông Phúc Hậu chỉ đường tìm đứa trẻ đi lạc: “Xin cụ tổ hiền gia ânlàm phúc giúp trẻ con hồi tâm chuyển ý, biết chọn lối sáng mà thoát ra khỏi chốnu mê trở về nhà”.
Chị Xuyên ngồi bán đồ lưu niệm cho khách nước ngoài, hơn chục năm ngồi ở cổngđền kể, nhiều gia đình con bỏ đi hàng tháng trời, tìm trong tuyệt vọng, người tamách đến đền khấn ông Phúc Hậu để mong tìm con, cũng có gia đình sau khi thấycon đến đây vái tạ.
Ngoài đền treo mấy tấm bảng sơn son thếp vàng: “Phúc hậu linh từ” và “Thiện phúclộc”, đủ thấy vị thần nhân trong đền rất đỗi hiền từ.
Theo những sắc phong và tấm bia đá của đền ghi lại thì thần có danh tính là TrầnNhuận Đình sống ở thời nhà Trần (thế kỷ13-14). Ông đỗ tiến sĩ và ra làm quantriều Trần. Có thời gian, ông phụng mệnh nhà Vua sang Tàu học nghề tráng gương.Ông đem kĩ thuật tráng gương về nước truyền dạy cho nhân dân và trở thành ông tổnghề tráng gương ở Việt Nam.
Tương truyền khi còn sống, ông biết mọi ngóc ngách của kinh thành Thăng Longxưa, biết cả những xó xỉnh mà lũ trẻ hay tìm đến. Khi gia đình nào có con cái đilạc thường tìm đến ông. Không nề hà, ông thường đích thân đi tìm đứa bé.
Để biết ơn công lao của ông, thôn Kim Cổ lập đền thờ sau khi ông mất. Sau này,những gia đình có con cái đi lạc thường đến đền Nhân Hậu để cầu khấn. Trong đềncòn lưu ba đạo sắc phong vị thần Nhân Hậu vào các đời vua Thành Thái, Duy Tân vàKhải Định./.
(TT&VH/Vietnam+)