Lịch sử tỉnh Quảng Ninh - đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc

Quảng Ninh là một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ninh. (Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Quảng Ninh)
Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ninh. (Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Quảng Ninh)

Là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Quảng Ninh có nhiều khu kinh tế, trung tâm thương mại là đầu mối giao thương với các nước trong khu vực.

Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, và vừa thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ.

Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam, có vịnh Hạ Long là di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới. Quảng Ninh cũng là 1 trong 8 tỉnh được Chính phủ Việt Nam quy hoạch thành thành phố trực thuộc trung ương.

Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vị trí địa lý

Tỉnh Quảng Ninh có vị trí ở địa đầu đông bắc Việt Nam, lãnh thổ trải theo hướng Đông Bắc-Tây Nam. Quảng Ninh nằm cách thủ đô Hà Nội 125 km về phía Đông Bắc.

Về địa giới hành chính của tỉnh Quảng Ninh, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Tây giáp các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Lạng Sơn; phía nam giáp thành phố Hải Phòng và Vịnh Bắc Bộ; phía bắc giáp khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc.

Quảng Ninh có diện tích 6.208 km2. Theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2024, dân số Quảng Ninh là 1.393.702 người, đứng thứ 23 cả nước.

vnp-quang-ninh02.jpg
Hòn Trống Mái - biểu tượng của du lịch Hạ Long, Quảng Ninh. (Ảnh: Vietnam+)

Lịch sử hình thành

Tiền sử Quảng Ninh được biết sớm nhất là ở các địa điểm thuộc Văn hóa Soi Nhụ. Vào thời kỳ của các văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, khoảng 18.000 năm về trước, lúc băng hà lần cuối cùng phát triển, mực nước biển Đông hạ thấp tới độ sâu 110-120 m dưới mực nước biển hiện tại. Lúc đó vịnh Bắc Bộ, trong đó có vịnh Hạ Long là một đồng bằng tam giác châu rộng lớn.

Mặc dù các nhà khoa học gặp nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, song với khối tư liệu thu được sau cuộc khai quật di chỉ Đầu Rằm, có thể nói rằng từ tiền sử tới sơ sử Quảng Ninh là một quá trình phát triển liên tục, không hề có bất cứ một đứt đoạn nào. Việc phát hiện các di tích sơ sử tại Quảng Ninh cũng đã góp phần khẳng định rằng vào thời Hùng Vương, Quảng Ninh đã thực sự là một bộ phận của quốc gia Văn Lang.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, ngay từ thời Hùng Vương, đất nước ta đã được chia thành 15 bộ, trong đó có các bộ Ninh Hải, Lục Hải. Địa bàn của bộ Ninh Hải, Lục Hải thời đó không hoàn toàn trùng với địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, ngoài Quảng Ninh thì tối thiểu hai bộ đó còn bao gồm một phần Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và một phần Lưỡng Quảng (bao gồm một phần của 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc) ngày nay, nhưng trung tâm của Ninh Hải, Lục Hải chính là khu vực tỉnh Quảng Ninh bây giờ.

Sử liệu về thời Lý-Trần còn lại quá ít ỏi, không cho phép chúng ta hiểu đầy đủ về quá trình biến đổi của đất Hải Đông.

Tuy nhiên, về đại thể có thể biết được là năm 1023, sau khi dẹp yên cuộc nổi dậy của người Đại Nguyên Lịch (tên một dân tộc thiểu số ở vùng biển Việt Trung), nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vinh An, xác định biên giới đông bắc của Đại Việt.

Ít lâu sau, cả vùng Ninh Hải-Lục Châu cũ được đặt thành phủ Hải Đông.

Khoảng năm 1242, nhà Trần nâng Hải Đông lên thành lộ và đến cuối thế kỷ 14 đổi gọi là An Bang. Đông Triều bấy giờ còn là một châu của lộ Hải Dương.

Cùng với sự phát triển của đất nước, cư dân An Bang cũng ngày càng tăng, ruộng đất làng xóm được mở rộng, các đơn vị hành chính như huyện Hoa Phong, Hoành Bồ, Yên Hưng, Đông Triều, các châu Tiên Yên, Vĩnh An, Vân Đồn, Vạn Ninh đã được hình thành.

Vào cuối đời Lý, tổ tiên nhà Trần đã đến ở vùng An Sinh (thuộc Đông Triều) làm nghề đánh cá. Sau này khu vực An Phụ, An Dưỡng, An Sinh và An Bang được đặt thành thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu, anh của Trần Thái Tông.

Vào đời Lê Anh Tông (1556-1573) vì kỵ húy nhà vua đổi gọi An Bang thành An Quảng.

Đến thời nhà Tây Sơn, các trấn từ Sơn Nam Hạ và Bắc được đổi gọi là Bắc Thành. Phủ Kinh Môn với 7 huyện, trong đó có cả Đông Triều đã được sáp nhập vào An Quảng. Lúc này An Quảng trở thành một trấn lớn.

Ngày 3/5/1801, Nguyễn Ánh đã thu phục được Kinh đô Phú Xuân và năm 1802 chính thức lên ngôi Hoàng đế. An Quảng được giữ nguyên là một ngoại trấn, với một phủ Hải Đông, ba huyện Hoành Bồ, Yên Quảng, Hoa Phong và ba châu Vạn Ninh, Tiên Yên và Vân Đồn.

Năm 1822, Minh Mạng năm thứ 3, vua Minh Mạng đổi trấn Yên Quảng thành trấn Quảng Yên.

Năm 1831, Minh Mạng năm thứ 12, đổi trấn Quảng Yên thành tỉnh Quảng Yên.

Năm 1836, Minh Mạng năm thứ 17, đặt thêm phủ Sơn Định, bớt châu Vân Đồn. Châu Vân Đồn chuyển thành tổng Vân Hải trong huyện Hoa Phong (là huyện Chi Phong thời Lê). Tỉnh Quảng Yên có 2 phủ (Hải Ninh, Sơn Định). Phủ Hải Ninh có 2 châu Tiên Yên, Vạn Ninh. Phủ Sơn Định có 3 huyện Hoành Bồ, Yên Hưng, Hoa Phong.

tinh-quang-ninh1.jpg
Mũi Bạch Long (Paklung) trên bản đồ 1888. (Ảnh: wikipedia)

Năm 1841, Thiệu Trị năm thứ nhất, vua Thiệu Trị đổi huyện Hoa Phong thành huyện Nghiêu Phong.

Năm 1888, Đồng Khánh năm thứ 3, vua Đồng Khánh chuyển các xã Định Lập, Bích Xá, Kiên Mộc từ châu Tiên Yên phủ Hải Ninh, tỉnh Quảng Yên về tỉnh Lạng Sơn.

Năm 1890, Thành Thái năm thứ 2, vua Thành Thái lập xã Dương Huy gồm ấp Hà Đông, làng Dương Huy, động Dương Huy.

Ngày 10/11/1890, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định lập phủ Nghiêu Phong. Phủ Nghiêu Phong có 2 huyện Cát Hải, Vân Hải.

Ngày 20/8/1891, Thành Thái năm thứ 3, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định tách phủ Hải Ninh khỏi tỉnh Quảng Yên, lập khu quân sự Móng Cái (Khu quân sự Móng Cái cùng với Khu quân sự Phả Lại và Khu quân sự Thái Nguyên nằm trong Đạo quan binh thứ nhất).

Ngày 24/8/1891, Thành Thái năm thứ 3, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định tách huyện Lục Ngạn và huyện Yên Bác từ tỉnh Lục Nam, hợp với một phần huyện Hoành Bồ của tỉnh Quảng Yên và huyện Đông Triều, huyện Chí Linh lập thành Khu quân sự Phả Lại thuộc Đạo quan binh thứ nhất.

tinh-quang-ninh3.jpg
Bản đồ Quảng Yên năm 1890. (Ảnh: wikipedia)

Ngày 10/10/1895, Thành Thái năm thứ 7, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định xóa bỏ Khu quân sự Phả Lại, sáp nhập huyện Yên Bác vào tỉnh Quảng Yên, trả huyện Đông Triều về tỉnh Hải Dương, thành lập hai làng người Việt Nam ở đảo Cái Bầu.

Năm 1896, Thành Thái năm thứ 8, sáp nhập 7 làng của tổng Bí Giàng thuộc huyện Đông Triều, tỉnh hải Dương vào huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên.

Ngày 5/5/1900, Thành Thái năm thứ 12, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định chia Đạo quan binh thứ nhất thành ba khu quân sự là Lạng sơn, Móng Cái, Vạn Linh.

Năm 1901, Thành Thái năm thứ 13, lập tổng Minh Cầm thuộc huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên.

Năm 1902, Thành Thái năm thứ 14, lập 3 phường thuộc huyện Yên Hưng là Uông Giang, Bắc Giang, Nhị Giang.

Ngày 8/4/1903, Thành Thái năm thứ 15, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định xóa bỏ khu quân sự Vạn Linh. Đạo quan binh thứ nhất chia làm ba khu quân sự là Lạng Sơn, Móng Cái, Thất Khê.

Ngày 20/7/1904, Thành Thái năm thứ 16, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định chuyển khu quân sự Thất Khê sang Đạo quan binh thứ hai. Đạo quan binh thứ nhất còn hai khu quân sự là Móng Cái, Lạng Sơn.

Ngày 20/6/1905, Thành Thái năm thứ 17, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định xóa bỏ Đạo quan binh thứ nhất, trả Móng Cái về tỉnh Quảng Yên. Móng Cái thành một phủ có ba châu là Móng Cái, Hà Cối, Tiên Yên.

Ngày 10/12/1906, Thành Thái năm thứ 18, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định tách phủ Móng Cái gồm ba châu Móng Cái, Hà Cối, Tiên Yên của tỉnh Quảng Yên, thành lập tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hải Ninh.

Ngày 13/02/1909, Duy Tân năm thứ 3, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định tách một số xã của tỉnh Quảng Yên sang tỉnh Bắc Giang để lập huyện Sơn Động.

Ngày 14/12/1912, Duy Tân năm thứ 6, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định xóa bỏ tỉnh Hải Ninh, lập Đạo quan binh thứ nhất.

Ngày 13/4/1915, Duy Tân năm thứ 9, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định tách huyện Yên Bác khỏi tỉnh Quảng Yên sáp nhập vào tỉnh Bắc Giang.

Ngày 16/12/1919, Khải Định năm thứ tư, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định cắt hai tổng Bình Liêu, Vô Ngại của châu Tiên Yên lập thành châu Bình Liêu thuộc phủ Hải Ninh trong Đạo quan binh thứ nhất. Đến đây Đạo quan binh thứ nhất gồm một phủ Hải Ninh trong đó có bốn châu là Móng Cái, Hà Cối, Tiên Yên, Bình Liêu.

Khoảng năm 1940, dưới thời vua Bảo Đại, Phủ Toàn quyền Pháp ra nghị định lập châu Cẩm Phả (gồm thị xã Cẩm Phả, đảo Cái Bầu - hồi đó là xã Đại Độc và một phần huyện Ba Chẽ, một phần huyện Hoành Bồ, trong đó có vùng Hà Tu hiện nay).

Giai đoạn 1946-1963, địa giới hành chính của tỉnh Quảng Yên, tỉnh Hải Ninh liên tục có sự sáp nhập, chia tách.

Ngày 19/7/1946, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 269 NV-NĐ “...Tạm lập tại tỉnh Quảng Yên Khu đặc biệt Hòn Gai chịu sự điều khiển, kiểm soát trực tiếp của Ủy ban Hành chính Bắc Bộ. Khu đặc biệt Hòn Gai gồm châu Cẩm Phả và 6 thị xã Cẩm Phả Bến, Cẩm Phả Mỏ, Hà Tu, Hà Lầm, Hòn Gai, Bãi Cháy” (châu Cẩm Phả gồm cả đảo Cái Bầu, phố Ba Chẽ).

Ngày 21/9/1946, Ủy ban Kháng chiến tỉnh Hải Ninh công bố thành lập châu Hải Chi. Ngày 4/10/1946, Ủy ban Kháng chiến châu Hải Chi ra mắt trong cuộc mít tinh ở làng Dạ, nay thuộc xã Thanh Lâm (chưa tìm được văn bản gốc).

Tháng 11/1946, cả nước chia thành 12 khu hành chính và quân sự (sau thường gọi là chiến khu). Tỉnh Hải Ninh thuộc Khu 12 (Trong Khu 12 còn có các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh). (Tỉnh Quảng Yên thuộc chiến khu 3).

Tháng 3/1947, Bộ Nội vụ ra nghị quyết sáp nhập Khu đặc biệt Hòn Gai và tỉnh Quảng Yên thành liên tỉnh Quảng Hồng.

Ngày 9/7/1947, Liên bộ Nội vụ - Quốc phòng ra Quyết nghị số 99 NV/NĐ “Để các phủ, huyện Kinh Môn, Nam Sách, Chí Linh, Đông Triều (Tỉnh Hải Dương) Thủy Nguyên (tỉnh Kiến An) và Khu đặc biệt Hòn Gai thuộc quyền điều khiển của Ủy ban hành chính và Ủy ban Kháng chiến tỉnh Quảng Yên."

Tháng 7/1947, Khu ủy 12 ra nghị quyết chuyển huyện Lộc Bình từ tỉnh Lạng Sơn về tỉnh Hải Ninh.

Tháng 9/1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu I ra nghị định tách các xã phía tây huyện Sơn Động cùng các xã phía đông bắc phủ Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang thành lập châu Lục-Sơn-Hải thuộc liên tỉnh Quảng Hồng.

Ngày 25/11/1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 265-SL sáp nhập tỉnh Quảng Yên vào Chiến khu 12.

Ngày 25/01/1948, hợp nhất các chiến khu thành các liên khu (Bắc Bộ có các liên khu 1, 3, 10). Tỉnh Quảng Hồng và tỉnh Hải Ninh thuộc Liên khu 1.

Ngày 25/8/1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 237-SL “chuyển huyện Thủy Nguyên (thuộc tỉnh Kiến An) và huyện Nam Sách (thuộc tỉnh Hải Dương) trước sáp nhập vào Liên khu I nay lại để thuộc Liên khu 3 và các tỉnh cũ."

Ngày 16/12/1948, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1 ra Quyết định số 420PC/1 “tách khu Hòn Gai ra khỏi địa giới tỉnh Quảng Hồng và đặt thành một đơn vị kháng chiến hành chính đặc biệt, gọi là Khu đặc biệt Hòn Gai. Tỉnh Quảng Hồng nay lấy lại tên cũ là tỉnh Quảng Yên. Khu đặc biệt Hòn Gai đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1."

Đến lúc này, tỉnh Quảng Yên có các huyện Yên Hưng, Cát Hải, Hoành Bồ, Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn và Lục-Sơn-Hải. Khu đặc biệt Hòn Gai (gọi tắt là Đặc khu Hòn Gai) gồm thị xã Hòn Gai, thị xã Cẩm Phả và huyện Cẩm Phả.

vnp-quang-ninh-04.jpg
Bảo tàng Quảng Ninh trưng bày chuyên đề chi tiết toàn bộ quá trình hoạt động và kỷ niệm của Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Quảng Ninh. (Ảnh: Vietnam+)

Ngày 21/1/1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1 ra Quyết định số 46CP/1 công nhận huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên gồm các xã Đoàn Kết, Cộng Hòa, Lê Lợi, Việt Hưng, Tân Dân, Dân Chủ, Sơn Dương.

Ngày 12/3/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 13-SL chuyển huyện Kinh Môn từ tỉnh Quảng Yên, Liên khu 1, về tỉnh Hải Dương, Liên khu 3.

Ngày 21/4/1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1 ra Quyết định số 217 PC/4 hợp nhất hai xã Ngọc Lâm và Hoàng Quế thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Yên thành một xã lấy tên là xã Phạm Hồng Thái.

Ngày 7/6/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48-SL “tạm thời tách huyện Lộc Bình khỏi tỉnh Hải Ninh, sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn."

Ngày 19/7/1949, Liên bộ Nội vụ-Quốc phòng ra Nghị định số 142-NV-3 “Đặc khu Hòn Gai thành một đơn vị kháng chiến hành chính riêng thuộc Liên khu 1."

Ngày 16/8/1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1 ra Quyết định số 572PC/2 ấn định địa giới Đặc khu Hòn Gai gồm 3 thị xã là Hòn Gai, Cẩm Phả Mỏ, Cẩm Phả Bến; 4 phố: Bãi Cháy, Hà Tu, Hà Lầm, Mông Dương; 1 huyện Cẩm Phả gồm 12 xã là Hồng Thanh, Vân Hải, Minh Châu, Tam Khê, Thi Đua, Thụy Hà, Tràng Xá, Đoàn Kết, Lương Hà, Hạ Long, Đông Hà, Xuyên Yên.

Ngày 5/10/1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 1 ra Quyết định số 911PC/2 tách huyện Hoành Bồ ra khỏi tỉnh Quảng Yên để nhập vào Đặc khu Hòn Gai.

Ngày 4/11/1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 127-SL hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10 thành Liên khu Việt Bắc.

Ngày 7/11/1949, Liên bộ Nội vụ-Quốc phòng ra Nghị định số 369-NV (trước đó Liên khu 1 đã ra quyết định “Sáp nhập huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên vào Đặc khu Hòn Gai”).

Ngày 4/3/1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 31-SL “Trả lại tỉnh Kiến An (Liên khu 3) huyện Thủy Nguyên hiện sáp nhập vào tỉnh Quảng Yên (Liên khu Việt Bắc)."

Ngày 25/7/1950, Liên khu Việt Bắc ra Quyết định số 664-P3 “Sáp nhập các xã Hoa kiều thuộc tổng Bát Trang, huyện Móng Cái, các xã Hoa kiều ở huyện Đầm Hà và các xã Hoa kiều thuộc huyện Hà Cối thành một khu Hoa kiều thuộc tỉnh Hải Ninh."

Ngày 12/2/1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Hải Ninh ra Quyết định số 255/PC-TC trả lại cho huyện Móng Cái các xã Hoa kiều thuộc tổng Bát Trang.

Hợp nhất 2 huyện Hải Chi và Định Lập thành huyện Định Hải (chưa tìm được văn bản quyết định).

Ngày 13/4/1953, Chính phủ ra Sắc lệnh số 669-SL “Lập xã Tân Mộc huyện Sơn Động.”

Ngày 12/1/1954, Chính phủ ra nghị định số 115-NĐ chuyển huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An về tỉnh Quảng Yên.

Chia huyện Định Hải thành 2 huyện Ba Chẽ, Định Lập (chưa tìm thấy văn bản gốc).

Ngày 1/2/1955, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 448-TTg tái lập thị xã Tiên Yên trực thuộc tỉnh Hải Ninh. Thị xã Tiên Yên gồm khu phố Tiên Yên và thôn Thác Đón.

Ngày 22/2/1955, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 221-SL “Thành lập khu Hồng Quảng đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ trung ương." Khu Hồng Quảng gồm Đặc khu Hòn Gai và tỉnh Quảng Yên (trừ các huyện Sơn Động, Kinh Môn, Nam Sách, Chí Linh).

vnp-bao-tang-quang-ninh.jpg
Bảo tàng Quảng Ninh - địa điểm du lịch thu hút du khách bậc nhất của tỉnh Quảng Ninh. (Ảnh: Vietnam+)

Ngày 11/2/1956, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 257-SL chuyển huyện Thủy Nguyên thuộc khu Hồng Quảng về tỉnh Kiến An.

Ngày 2/3/1956, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 192-TCCB chia xã Song Huy huyện Hoành Bồ thành 4 xã là Đồng Quặng, Lưỡng Kỳ, Hòa Bình, Dương Huy.

Ngày 5/6/1956, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 647-TCCB cắt thôn Đại Đán thuộc xã Việt Hưng, huyện Hoành Bồ để nhập vào xã Minh Thành, huyện Yên Hưng.

Ngày 16/1/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 84-TCCB sáp nhập 2 thị xã Cửa Ông, Cẩm Phả lấy tên là thị xã Cẩm Phả (bỏ tên Cẩm Cửa theo Quyết định số 24-TCCB ngày 03/1/1957 của Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng).

Ngày 6/3/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 336-TCCB chia xã Vân Hải thuộc huyện Cẩm Phả thành 4 xã là Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Minh Châu.

Ngày 8/4/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 143-TTg đặt tỉnh Hải Ninh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ Trung ương (trước đó thuộc Liên khu Việt Bắc, từ 1/7/1956 là Khu tự trị Việt Bắc).

Ngày 6/7/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 965-TCCB sáp nhập thôn Bùi Xá, xã Hoàng Xá vào xã Tiền An cùng huyện Yên Hưng.

Ngày 17/8/1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 374-TTg đổi thị xã Tiên Yên thành thị trấn Tiên Yên (trực thuộc Ủy ban Hành chính huyện Tiên Yên).

Ngày 2/10/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 2159-TCCB quy định địa dư các xã thuộc thị xã Cẩm Phả.

Ngày 8/10/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 2193-TCCB chia xã Yên Thanh, huyện Yên Hưng thành 2 xã là xã Yên Trung và Yên Thanh.

Ngày 5/11/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 2435-TCCB đổi tên xã Hoàng Xá, huyện Yên Hưng thành xã Hoàng Tân.

Ngày 12/12/1957, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 7622-TCCB thành lập xã Vạn Hoa thuộc huyện Cẩm Phả. Xã Vạn Hoa gồm phố Vạn Hoa và một số dân đánh cá thuộc xã Vạn Yên.

Ngày 17/6/1958, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 302-TTg “Sáp nhập xã Thành Công, huyện Hoành Bồ vào thị xã Hòn Gai, khu Hồng Quảng."

Ngày 28/7/1958, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 240-NV đổi tên 7 xã thuộc huyện Móng Cái, tỉnh Hải Ninh.

Ngày 2/10/1958, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định số 4532-TCCB chia xã Việt Dân huyện Đông Triều thành 2 xã là Việt Dân và xã Tân Phúc.

Ngày 28/1/1959, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 005-SL trả huyện Đông Triều thuộc khu Hồng Quảng về tỉnh Hải Dương.

Ngày 11/5/1959, Ủy ban Hành chính khu Hồng Quảng ra Quyết định 423-TCCB chia xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ thành 2 xã là Bằng Cả và Quảng La.

Ngày 17/5/1961, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 69-CP tách các thôn Vạn Nho, Đại Đán, Yên Cư ra khỏi xã Minh Thành, huyện Yên Hưng lập thành xã Đại Yên thuộc huyện Hoành Bồ.

Ngày 27/10/1961, Quốc hội Khóa II Kỳ họp thứ 3 ra Quyết định “Phê chuẩn việc sáp nhập huyện Đông Triều thuộc tỉnh Hải Dương vào khu Hồng Quảng."

Ngày 28/10/1961, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 181-CP thành lập thị xã Uông Bí trực thuộc khu Hồng Quảng; tách thôn Điền Công của xã Yên Thanh lập thành một xã riêng là xã Điền Công trực thuộc huyện Yên Hưng.

Ngày 13/5/1963, Bộ Nội vụ ra Quyết định số 105-NV phê chuẩn việc chia xã Hùng Thắng thuộc thị xã Hòn Gai thành hai xã là Hùng Thắng và Tân Hải.

Ngày 30/10/1963, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quyết định hợp nhất tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng thành tỉnh Quảng Ninh.

Từ ngày 1/1/1964, tỉnh Quảng Ninh đi vào hoạt động chính thức.

Ngày 4/6/1969, hợp nhất 2 huyện Đầm Hà và Hà Cối thành huyện Quảng Hà.

Ngày 29/12/1978, chuyển huyện Đình Lập về tỉnh Lạng Sơn vừa được tái lập quản lý.

Ngày 18/1/1979, huyện Móng Cái đổi tên thành huyện Hải Ninh.

Ngày 27/12/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 102/CP, thành phố Hạ Long được chính thức thành lập trên cơ sở thị xã Hồng Gai.

Ngày 23/3/1994, đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn; tách quần đảo Cô Tô khỏi huyện Cẩm Phả để thành lập huyện Cô Tô.

Ngày 20/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 52/1998/NĐ-CP, thành lập lại thị xã Móng Cái trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Hải Ninh.

Ngày 29/8/2001, huyện Quảng Hà được tách thành 2 huyện là Đầm Hà và Hải Hà (tức huyện Hà Cối trước đây).

Ngày 24/9/2008, Chính phủ ban hành Nghị định 03/NĐ-CP thành lập thành phố Móng Cái trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Móng Cái.

Ngày 25/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP thành lập thành phố Uông Bí trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Uông Bí.

Ngày 25/11/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP thành lập thị xã Quảng Yên và thành lập các phường thuộc thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.

vnp-quang-ninh03.jpg
Du thuyền trên vịnh Hạ Long. (Ảnh: Vietnam+)

Ngày 21/2/2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP thành lập thành phố Cẩm Phả thuộc trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Cẩm Phả.

Ngày 11/3/2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 891/NQ-UBTVQH13 thành lập thị xã Đông Triều trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đông Triều; và 6 phường thuộc thị xã Đông Triều.

Ngày 17/12/2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 837/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ninh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1/1/2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hoành Bồ vào thành phố Hạ Long.

Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính bao gồm 4 thành phố (Hạ Long, Móng Cái, Cẩm Phả, Uông Bí); 2 thị xã (Quảng Yên, Đông Triều) và 7 huyện (Bình Liêu, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Ba Chẽ, Vân Đồn, Cô Tô) với 177 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 72 phường, 7 thị trấn và 98 xã. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều thành phố trực thuộc nhất Việt Nam.

Quảng Ninh đang phát huy cao độ sự chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm," để thực hiện mục tiêu đã đề ra, đó là đến năm 2025, trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của khu vực phía Bắc, giữ đà tăng trưởng hằng năm trên 10%, GRDP bình quân đầu người tới năm 2025 đạt trên 10.000 USD.

Trong tầm nhìn đến năm 2030, xây dựng, phát triển Quảng Ninh là tỉnh kiểu mẫu giàu đẹp, văn minh, hiện đại; là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện; trung tâm du lịch quốc tế, trung tâm kinh tế biển, cửa ngõ của Vùng Kinh tế Trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; đô thị phát triển bền vững theo mô hình tăng trưởng xanh, thích ứng với Biến đổi Khí hậu; GRDP bình quân đầu người đạt trên 15.000 USD (theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025)./.

(Vietnam+)

Bình luận

Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Tin cùng chuyên mục