Lễ hội Nàng Hai mang đậm tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ

Lễ hội Nàng Hai ở xã Tiên Thành, Cao Bằng, là một điểm sáng nổi bật vì nó mang đậm nét văn hóa đặc trưng của người Tày, thể hiện lòng biết ơn, tôn kính với thiên nhiên và cầu mong mùa màng bội thu.
(Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Nằm tại phía Bắc Việt Nam, Cao Bằng tự hào là vùng đất lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Trong số đó, Lễ hội Nàng Hai (hay còn gọi là Mẹ Trăng) ở xã Tiên Thành, Cao Bằng, là một điểm sáng nổi bật vì nó mang đậm nét văn hóa đặc trưng của người Tày. Lễ hội nhằm thể hiện lòng biết ơn, tôn kính với thiên nhiên và cầu mong cho mùa màng bội thu.

Lễ hội Nàng Hai được tổ chức từ ngày 30 tháng Giêng đến ngày 22/3 âm lịch vào các năm chẵn. Theo tín ngưỡng dân gian dân tộc Tày, trên cung Trăng có Mẹ Trăng và mười hai nàng tiên, là các con gái của Mẹ. Mẹ cùng các nàng hằng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân chúng ở trần gian.

Lễ hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng các mẹ các nàng ở dưới trần gian hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống thăm trần gian và giúp trần gian trong công việc làm ăn để sinh sống.

Hoa quả rừng thực hiện trong lễ cúng. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Ngoài ý nghĩa là một lễ hội cầu mùa lớn, Lễ hội Nàng Hai còn phản ánh tục thờ Mẹ trong tín ngưỡng của người Tày. Bắt nguồn từ tư duy đề cao vai trò người phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp, thần thoại khởi nguyên về nghề nông của người Tày là truyền thuyết Pú lương quân với sự tích vợ chồng khổng lồ Báo Luông (trai to), Sao Cải (gái lớn). Trong đó, vai trò của bà mẹ Sao Cải được đặc biệt nhấn mạnh cùng với sự phát sinh, phát triển của nghề nông qua hàng loạt các địa danh liên quan.

Có lẽ xuất phát từ các quan niệm truyền thống về người Mẹ, kết hợp với quan niệm dân gian coi Mặt Trăng là chủ thể về thái âm (nữ tính) mà người Tày đã gắn Trăng với vai trò của người mẹ lớn cai quản trần gian về nhiều việc, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế trong thần thoại của người Tày, Nàng Trăng chính là con gái Vua trời, được cha giao cho trông coi công việc nhà nông ở cõi trần gian.

Để chuẩn bị cho Lễ hội Nàng Hai, đồng bào dân tộc Tày chọn một bãi đất phẳng, rộng rãi làm nơi mở hội. Trên bãi căng vải dựng rạp gọi là trại mẻ mành. Nơi Nàng Hai ngồi làm lễ đặt ở trung tâm sân có lợp vải hoa và trải chiếu hoa. Trại mẻ mành dựng bằng cọc, trên lợp vải hoa quây thành hình chữ U bao quanh sân hội.

Đầu bản và cuối bản dựng cổng chào lớn để đón khách. Các gia đình trong bản chuẩn bị các mâm cỗ mặn gồm các món ăn truyền thống để đón khách đến chơi hội và để thi trong ngày tổ chức lễ hội.

Thầy bụt và 12 cô gái tượng trưng cho 12 nàng Trăng làm lễ tại miếu thờ thổ công. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Lễ hội có 3 phần gồm Lễ đón Hai, Lễ cầu Hai và Lễ tiến Hai. Mỗi một phần nghi lễ sẽ có những lễ vật khác nhau.

Nghi lễ đầu tiên là Lễ đón Hai. Tại lễ này, thầy bụt (hay còn gọi là thầy cúng) sẽ ra miếu thổ công để xin thổ công mời Mẹ Trăng xuống trần gian. Khi thầy bụt bắt đầu lầm rầm khấn vái chính thức mời Mẹ Trăng xuống trần gian giúp dân việc đồng áng và cầu phúc cho dân bản, 12 cô gái được chọn đóng làm 12 nàng Hai cũng sẽ bắt đầu múa hát theo lời thầy bụt. Và kể từ giờ phút đó, các cô được xem như đã trở thành nàng Hai xuống giúp cầu mùa, cầu phúc cho dân bản.

Lễ vật dâng lên Nàng Hai và các tiên nữ. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Nghi lễ thứ hai là Lễ cầu Hai được diễn ra tại hai nơi là miếu thổ công và lán Hai. Trong phần lễ này, thầy bụt sẽ lần lượt làm lễ cúng 12 mẹ Trăng, với đại diện là 12 cô gái tượng trưng cho 12 Mẹ Trăng, tượng trưng cho 12 tháng âm lịch trong năm. Theo quan niệm của người Tày, mỗi Mẹ Trăng sẽ trông coi việc cầu phúc và mỗi phần việc đồng áng khác nhau.

Các thiếu nữ nhập vai nàng Hai đón Mẹ Trăng xuống trần. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Nghi lễ cuối là Lễ tiến Hai. Đây là nghi lễ khá quan trọng, thu hút nhiều người dân ở các vùng lân cận tới dự. Lễ tiễn Hai thể hiện sự quyến luyến của các Mẹ Trăng và các nàng Hai trước lúc về trời, với những lời hát dặn dò và lời hẹn ước sẽ gặp lại năm sau, thể hiện niềm tin mãnh liệt của cộng đồng dân bản vào sự phù hộ của Mẹ Trăng gắn với ước mong tốt đẹp về cuộc sống bình yên, no ấm, của đồng bào Tày.

Phụ nữ Tày thực hiện nghi thức múa. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Với Lễ hội Nàng Hai, phần múa quạt và xem thuyền là một nghi lễ chính của lễ hội nhằm diễn tả đoàn người trần gian đưa lễ vật lên mường trời. Quạt được sử dụng làm đạo cụ chính trong khi diễn. Múa quạt do các mụ nàng, mụ nọi làm sluông tiến lễ vừa hát vừa thực hiện. Các điệu múa được sử dụng trong lễ hội đơn giản, mọi người có thể múa được dễ dàng, bao gồm 5 điệu múa là múa quét, múa cầu mùa, múa chèo thuyền, múa gập một nửa quạt, múa gập quạt hoàn toàn. Hình thức múa đơn giản nhưng có tính biểu đạt cao khiến người ta liên tưởng đến những nàng tiên trên trời với những đôi cánh tiên đã đi vào trong truyện cổ tích.

Lễ hội Nàng Hai phản ánh hiện thực cuộc sống, nhân sinh quan cũng như những tâm tư, ước vọng của đồng bào dân tộc Tày để cầu mong mưa thuận gió hòa, đoàn kết và tôn trọng giữa những người cùng trong cộng đồng. Các câu hát đối đáp trong lễ hội đều có ý nghĩa chia sẻ, đồng cảm, khơi gợi mọi người yêu thương, đối xử nhân từ, độ lượng với nhau hơn. Nó cũng còn có ý nghĩa cổ vũ, động viên bà con lao động, sản xuất với nguồn năng lượng, suy nghĩ tích cực, lạc quan.

Thuyền gỗ được sử dụng trong suốt những ngày hội chính. (Nguồn: Báo Ảnh Việt Nam)

Ngoài ra, Lễ hội Nàng Hai còn gây ấn tượng mạnh bởi các loại hình văn hóa độc đáo, đa dạng như nghệ thuật trang trí, đẽo thuyền gỗ, làm đồ thủ công, nghệ thuật ẩm thực thể hiện trong mâm lễ… Những kỹ năng này hiện vẫn đang được giữ gìn và trao truyền qua các thế hệ.

Đến với Lễ hội Nàng Hai, người ta không chỉ được thưởng thức nghệ thuật, tìm hiểu văn hóa tâm linh, mà còn có dịp hội ngộ với tất cả sự cởi mở, chân tình, tấm lòng mến khách của đồng bào dân tộc.

Với những ý nghĩa nhân văn và tính đặc sắc, Lễ hội Nàng Hai của người Tày đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào ngày 20/6/2017./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục