Sau ba năm triển khai, việc tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở giáo dục đã đạt nhiều kết quả tích cực giúp tinh gọn bộ máy nhưng đồng thời cũng bộc lộ những khó khăn, bất cập cần tháo gỡ.
Đây là các vấn đề được đặt ra tại Hội nghị đánh giá công tác thực hiện sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên tại các địa phương giai đoạn 2017-2020 vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Quảng Ninh ngày 23/4.
Cả nước giảm trên 2.300 trường
Triển khai Nghị quyết 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 08 của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và thường xuyên. Trong các văn bản hướng dẫn, Bộ cũng nêu rõ việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của mỗi địa phương, địa bàn cụ thể. Do vậy các địa phương khác nhau có phương pháp, lộ trình tổ chức thực hiện khác nhau.
Việc tổ chức lại các cơ sở giáo dục nhằm giảm đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, tinh giản biên chế gắn với việc cơ cấu lại, nâng cao chất lượng giáo dục.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau ba năm thực hiện, tình trạng trường lớp có quy mô nhỏ và chất lượng giáo dục chưa cao đã dần được khắc phục, giúp hệ thống tinh gọn và hiệu quả hơn. Hàng nghìn điểm trường đã được dồn ghép, sáp nhập vào các trường chính, nhiều trường có quy mô nhỏ được sáp nhập thành hệ thống các trường liên cấp có quy mô lớn hơn.
Cụ thể, thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy sau ba năm triển khai rà soát, sắp xếp, cả nước giảm 2.302 trường, tương đương 6,06% tổng số trường. Trong đó bậc mầm non giảm 4,25%, tiểu học giảm 12,73%, trung học cơ sở giảm 9,82%, trung học phổ thông giảm 1,96%, trường phổ thông có nhiều cấp học tăng 88,64% (do sáp nhập để hình thành các trường liên cấp). Số điểm trường giảm 2.708 điểm, tương đương 6,65% số điểm trường hiện có. Số lượng các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện giảm từ ba trung tâm mỗi huyện xuống còn một trung tâm mỗi huyện.
Việc giảm các cơ sở giáo dục quy mô nhỏ đã giúp vật chất và thiết bị dạy học được đầu tư tập trung, sử dụng hiệu quả hơn, giảm số lượng đơn vị sự nghiệp, tinh giản bộ máy, giảm số lượng cán bộ quản lý giáo dục và nhân viên phục vụ gián tiếp, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Đặc biệt, mạng lưới trường lớp vùng dân tộc thiểu số được củng cố, phát triển từ mầm non đến phổ thông. Về cơ bản không còn xã trắng về giáo dục mầm non, mọi thôn, bản đều có lớp mầm non. Tất cả các xã đều có trường tiểu học hoàn chỉnh ở trung tâm xã. Hầu hết các xã đã có trường trung học cơ sở, các huyện đều có trường trung học phổ thông. Mạng lưới trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú ngày càng mở rộng về quy mô.
Rà soát, khắc phục các hạn chế
Dù đã đạt được những kết quả tích cực nhưng sau ba năm triển khai ở các địa phương vẫn còn những khó khăn và bộc lộ những hạn chế. Tại một số địa phương, việc sắp xếp dựa trên mục tiêu giảm số lượng đơn vị sự nghiệp công lập được chú trọng hơn các yếu tố liên quan đến duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sức ép cho ngành giáo dục khi thực hiện. Việc dồn lớp, sáp nhập hoặc xóa các điểm trường, sáp nhập điểm trường vào trường chính làm tăng tỷ lệ học sinh/lớp, tăng số lượng học sinh bán trú tại trường chính gây khó khăn trong công tác tổ chức dạy học, quản lý học sinh…
Vì thế, để thực hiện việc tổ chức, sắp xếp lại hệ thống trường lớp đạt đúng mục tiêu đề ra, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho rằng cần rà soát kỹ hơn việc sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục trong thời gian ba năm qua. Từ đó chỉ ra các vấn đề cần khắc phục, các thành quả cần phát huy đồng thời là cơ sở cho các kiến nghị về chính sách cho ngành.
[Chính sách phát triển giáo dục mầm non, kiên cố hóa trường lớp học]
Về phía các địa phương, Bộ trưởng đề nghị không rập khuôn, máy móc mà phải xây dựng nguyên tắc, đề án sắp xếp các cơ sở giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế. Việc sắp xếp trường lớp phải tuân thủ các quy định hiện hành có liên quan như quy định về quy mô trường/lớp, sỹ số học sinh/lớp, tiêu chuẩn cơ sở vật chất trường học, tỷ lệ giáo viên/lớp, khoảng cách và điều kiện giao thông đi lại. Sau khi sắp xếp quy mô mạng lưới trường, lớp không làm giảm học sinh ra lớp ở các độ tuổi, đảm bảo tỷ lệ chuyên cần. Việc xây dựng phương án, tổ chức bố trí lại đội ngũ phải đảm bảo công khai, dân chủ, minh bạch, làm tốt công tác tư tưởng cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng cho biết lãnh đạo Bộ sẽ có thêm các cuộc làm việc cụ thể hơn với một số tỉnh, thành phố để rà soát các vấn đề, tập hợp thông tin, phân tích tình hình, kiến nghị ở từng địa phương, qua đó cùng tháo gỡ. Vấn đề nào thuộc thẩm quyền ngành giáo dục có thể giải quyết phải lên kế hoạch giải quyết ngay, những việc vượt quá thẩm quyền sẽ có kiến nghị ở tầm vĩ mô hơn./.