Khó bảo tồn chiêng Tha của người dân tộc Brâu ở Tây Nguyên

Với người Brâu ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, chiêng Tha chính là biểu tượng của tinh thần, là "thần linh" che chở, bảo trợ cho gia đình có được cuộc sống ấm no, yên bình.
Hai nghệ nhân dân gian dân tộc Brâu ở huyện Ngọc Hồi (Kon Tum) đánh chiêng Tha trong các nghi lễ của dân tộc mình. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)

Trong kho tàng nhạc cụ dân gian Tây Nguyên, mỗi nhạc cụ là biểu tượng, vật báu của từng tộc người, là linh hồn của buôn làng. Với người Brâu ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, chiêng Tha chính là biểu tượng của tinh thần, là thần linh che chở, bảo trợ cho gia đình có được cuộc sống ấm no, yên bình.

Vật thiêng của người Brâu

Brâu là một trong sáu dân tộc thiểu số ít người nhất ở Việt Nam hiện nay. Ở Kon Tum, dân tộc này hiện có hơn 100 hộ sinh sống tại làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum - vùng đất mà con gà gáy ba nước cùng nghe (Việt Nam-Lào-Campuchia).

Người Brâu coi chiêng Tha là "vật chủ" kết nối giữa thế giới của dân làng với các thần linh trên cao. Bởi vậy, khi có những lễ hội quan trọng như lễ đâm trâu, mùa giáp hạt, lễ mừng lúa mới... chiêng Tha luôn là vật chính của lễ hội.

Chiêng Tha chỉ có hai chiếc, gồm Chuar (vợ) và Jơliêng (chồng); cả hai đều không có núm (chiêng bằng), có kích cỡ khác nhau (Jơliêng to và dày hơn Chuar). Khi làm lễ gọi Tha về, thần Tha sẽ mời tất cả các thần khác về để cùng bảo trợ, phù hộ cho dân làng mùa màng tươi tốt, lúa nhiều, chăn nuôi thuận lợi.

Già Thao Lợi kể khi lễ hội bắt đầu, người dân trong làng mới tổ chức mời Tha về. Người Brâu không nói đánh chiêng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên, mà gọi là "gọi Tha," tức mời Tha về. Người đứng ra mời là già làng hoặc người được cả làng tôn vinh, đảm nhiệm vai trò chủ lễ.

Lễ gọi Tha to hoặc nhỏ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của làng, nhưng ít nhất cũng phải là một ché rượu và một con gà. Chủ lễ cắt tiết gà rồi xoa vào lòng chiêng theo vòng tròn nhiều lần, rót rượu đầu ghè mời chiêng uống và khấn thần linh bốn phương. Khấn xong, hai nghệ nhân mới vào thực hiện việc mời Tha về.

Khi diễn tấu, hai chiêng được treo lên theo hướng úp vào nhau, cách mặt đất khoảng chừng 15 đến 20 cm. Cách diễn tấu chiêng Tha được coi là độc nhất vô nhị so với các loại cồng chiêng khác ở Tây Nguyên. Người Brâu gọi dùi đánh chiêng Chồng (Jơ liêng) là dùi Đực; dùi đánh chiêng Vợ (Chuar) là dùi Cái. Người đánh dùi Cái thúc âm ở mặt chiêng, còn người đánh dùi Đực thúc dùi vào lòng chiêng. Họ ngồi bệt xuống đất, hai chân duỗi thẳng, bàn chân nâng áp sát thành chiêng để ngắt tiếng, tạo âm sắc cho chiêng. Khi diễn tấu bao giờ chiêng vợ cũng lên tiếng trước, khi nhập được vào tiết tấu rồi chiêng chồng mới tham gia. Chiêng Tha nổi lên một, hai bài thì các chiêng khác mới được vào cuộc.

Trong thế giới tâm linh của người Brâu, chiêng Tha còn là đại diện cho sự lành-ác; sự đoàn kết và chia rẽ. Lý giải về điều này, già Thao Lợi cho biết chiêng Tha lành là những chiêng không hay đòi ăn, chỉ khi nào gia đình có lễ mời Tha về thì Tha mới về. Còn Chiêng Tha ác là những chiêng rất hay đòi ăn, khi đòi ăn Tha sẽ báo cho người chủ hộ biết thông qua việc bị đau ốm... Chiêng Tha còn thể hiện sự đoàn kết và chia rẽ, khi chiêng bị bể hoặc nứt, vỡ chứng tỏ anh em trong gia đình đó không đoàn kết, đòi chia của cải của cha mẹ để lại.

Chính bởi sự thiêng liêng của chiêng Tha mà không phải nhà nào cũng được thần Tha về ở. Già Thao Lợi cho biết những gia đình nào khi được thần Tha báo mộng cho gặp một bộ nia (dụng cụ để sảy lúa), một con ba ba thì mới được mời Tha về nhà. Tuy nhiên, không phải nhà nào mời là được luôn mà phải một hai năm sau mới mời về được. Để mời thần Tha về ở trong nhà, gia đình phải có của cải tương đương với 20-25 con trâu.

Khó khăn trong công tác bảo tồn

Theo thống kê của ngành văn hóa xã Bờ Y, hiện nay trong cộng đồng người Brâu còn lưu giữ khoảng 8 bộ chiêng Tha. Tuy nhiên, trước sự xâm lấn của văn hóa hiện đại, sự khan hiếm của loại chiêng này cùng với yếu tố tâm linh, công tác bảo tồn, lưu giữ chiêng Tha đang gặp rất nhiều khó khăn.

Theo già Thao Lợi, bây giờ loại chiêng này rất khó mua, bên cạnh kinh phí ở mức 50-60 triệu đồng/bộ, yếu tố tâm linh khiến việc lưu giữ gặp nhiều khó khăn, cả về số lượng chiêng và số người chơi.

Già Thao Lợi cho biết hiện giờ cả làng chỉ có dưới 10 bộ chiêng. Đã mấy chục năm nay, số lượng chiêng Tha của làng không tăng thêm bộ nào; những bộ chiêng Tha của làng hiện cũng 40-50 năm tuổi.

Cùng với công tác bảo tồn số lượng chiêng gặp nhiều khó khăn, những nghệ nhân biết và sử dụng thành thạo nhạc cụ này bây giờ cũng rất ít.

Già Thao Lợi cho biết: "Giờ chỉ những người già mới chơi được, người trẻ trong làng giờ không thích học đánh loại chiêng này nữa đâu. Với lại những nhà có chiêng Tha thì cất giữ rất kỹ, đưa ra nhiều sợ thần Tha đi mất nên chỉ lưu truyền cho con cháu trong nhà thôi."

Về mặt chính quyền, việc bảo tồn di sản chiêng Tha cũng gặp nhiều khó khăn khi kinh phí, chính sách, chế độ cho những cán bộ làm văn hóa hiện vẫn chưa có. Vì vậy, việc bảo tồn chiêng Tha chỉ nằm ở việc tuyên truyền.

Ông Tống Văn Đồng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Bờ Y cho biết hiện nay chưa có chính sách hay kinh phí để xã lưu giữ bảo tồn loại chiêng này. Trong nhiều năm qua, để bảo tồn, gìn giữ, lưu giữ di sản văn hóa chiêng Tha trên địa bàn xã, xã đã tích cực tuyên truyền, vận động các gia đình đang sở hữu chiêng Tha biết được tầm giá trị văn hóa của loại chiêng này để lưu giữ.

Cùng với cồng chiêng của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chiêng Tha và nhiều nhạc cụ truyền thống khác của người Brâu đã được mọi người biết đến qua các hoạt động giao lưu văn hóa trong nước và quốc tế. Những nhạc cụ này không chỉ chứng tỏ bản sắc văn hóa riêng biệt, đặc sắc không thể trộn lẫn của dân tộc Brâu mà còn góp phần làm phong phú, đa dạng nền âm nhạc dân tộc Việt Nam./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục