Tiêm chủng là một trong những việc làm rất cần thiết, quan trọng với mỗi đứa trẻ. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc tiêm vaccine cũng được thực hiện mà không cần xem xét, bởi có những trường hợp đặc biệt trẻ không đủ điều kiện sức khỏe nên được bác sỹ trì chống chỉ định hoặc hoãn tiêm vaccine.
Do đó, trước khi tiêm chủng cho trẻ, bố mẹ cần phải tìm hiểu khi nào trẻ không được tiêm phòng, khi nào có thể tiêm phòng để đưa ra quyết định đúng đắn góp phần bảo vệ sức khỏe lâu dài cho con mình.
1. Vì sao trẻ cần tiêm chủng vaccine?
Hiện nay có khoảng 30 bệnh truyền nhiễm có vaccine phòng bệnh và khoảng 190 quốc gia, vùng lãnh thổ đưa vaccine vào sử dụng phổ cập cho người dân. Qua đó cho thấy tiêm chủng thực sự đóng vai trò to lớn đối với toàn xã hội.
Đối với trẻ em, nhất là nhóm tuổi mầm non, tiểu học và đặc biệt là nhóm trẻ dưới 5 tuổi, việc tiêm chủng vaccine, cụ thể là tiêm chủng đầy đủ và đúng lịch lại càng trở nên vô cùng quan trọng vì những lý do dưới đây.
Việt Nam là quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu ẩm ướt quanh năm là môi trường lý tưởng cho nhiều loại virus, vi khuẩn phát triển, rất dễ phát sinh bệnh dịch.
Hệ thống miễn dịch của trẻ thường chưa hoàn chỉnh và sức đề kháng với bệnh kém nên dễ nhiễm bệnh.
Bệnh truyền nhiễm rất dễ lây lan trong không khí, nơi tập trung đông người như nhà giữ trẻ, khu vui chơi, trường học, công ty,… Bệnh thường lây qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với nguồn bệnh qua đường máu, quan hệ tình dục, từ mẹ sang con.
Một số bệnh lý một khi đã mắc thì không thể hoặc khó điều trị dứt điểm (như bệnh viêm gan B), do đó tiêm vaccine là biện pháp phòng bệnh tốt nhất.
Trong trường hợp tiêm vaccine mà vẫn bị nhiễm bệnh thì bệnh sẽ nhẹ hơn rất nhiều và ít hoặc không có biến chứng.
2. Khi nào trẻ không nên tiêm chủng?
Trước khi tiêm chủng, bác sỹ sẽ khám sàng lọc để phát hiện các dấu hiệu bất thường của trẻ cần lưu ý để chỉ định tiêm/uống vaccine, tạm hoãn hay không được tiêm/uống một loại vaccine nào đó.
Do đó, nhằm tránh các nguy cơ gặp phản ứng nặng sau tiêm chủng, bố mẹ hoặc người chăm sóc trẻ cần nắm được các trường hợp khi nào trẻ không được tiêm phòng để phối hợp với bác sỹ nhằm đưa ra quyết định phù hợp và chính xác giúp bảo vệ an toàn cho trẻ.
Trẻ không nên tiêm chủng khi có tiền sử sốc hoặc phản ứng nặng sau tiêm chủng vaccine lần trước (có cùng thành phần), sốt cao trên 39°C kèm co giật hoặc dấu hiệu não/màng não, tím tái, khó thở.
Trẻ bị bệnh về tim, gan, phổi, lao cũng không nên tiêm chủng bởi thể chất các trẻ thường kém, khó chấp nhận được những phản ứng nhẹ do vaccine gây nên.
Trẻ bị bệnh liên quan đến thần kinh như tâm thần, động kinh, não bộ kém phát triển cũng không nên tiêm phòng.
Trẻ bị suy dinh dưỡng, còi xương nghiêm trọng hoặc hệ miễn dịch bẩm sinh thiếu hụt cũng không nên tiêm chủng.
Những trẻ bị hen suyễn, mề đay, hoặc thể chất quá nhạy cảm khi tiêm vaccine thường xảy ra dị ứng không nên tiêm chủng. Bởi trong vaccine có chứa một hàm lượng chất gây dị ứng vô cùng nhỏ, nhưng nó lại phả ứng và gây nguy hại đối với những trẻ nhỏ có cơ thể quá nhạy cảm.
Ngoài ra, trẻ đã từng có tiền sử phản vệ độ III trở lên sau khi tiêm vaccine hoặc sau khi tiếp xúc với một trong số thành phần của vaccine như gelatin, neomycin, protein trứng (ovalbumin), protein của men, kháng sinh, muối nhôm, các chất có vai trò bảo quản, chất ổn định… cũng không nên tiêm vaccine.
3. Các trường hợp trẻ nên tạm hoãn tiêm chủng
Để đảm bảo an toàn sau khi tiêm vaccine phòng bệnh, trẻ cần phải tạm hoãn tiêm chủng trong một số trường hợp sau.
Trẻ sơ sinh cân nặng dưới 2kg nên hoãn tiêm chủng.
Trẻ không nên tiêm chủng khi bộ phận da nơi cần tiêm chủng trên cơ thể của trẻ bị viêm, mẩn ngứa hoặc mưng mủ nghiêm trọng thì nên chữa khỏi bệnh trước rồi hãy tiến hành tiêm chủng sau.
Khi trẻ đang sốt, nhiệt độ cơ thể vượt quá 37,5 độ C, nên tìm hiểu nguyên nhân gây sốt và để đến lúc bé khỏi sốt hẳn thì tiến hành tiêm chủng. Bởi khi tiêm sẽ thường xuất hiện phả ứng, nhiệt độ cơ thể tăng lên, làm cho tình trạng sốt của bé trầm trọng hơn. ngoài ra sốt thường là dấu hiệu đầu tiên của các bệnh về truyền nhiễm cấp tính như cảm, sởi, viêm màng não, viêm gan…. Khi đó vaccine tiêm chủng không những làm tăng nhanh khả năng phát bệnh mà còn khiến bệnh tình thêm nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó, thành phần kháng nguyên trong vaccine và vi khuẩn gây bệnh sẽ kết hợp lẫn nhau và làm ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch của trẻ nhỏ.
Trẻ đang bị mắc bệnh truyền nhiễm hoặc mới khỏi bệnh chưa đầy 2 tuần, nên hoãn việc tiêm phòng.
Trẻ có hệ miễn dịch suy giảm do các bệnh lý như HIV/AIDS, ung thư, đang điều trị các liệu pháp làm suy yếu hệ miễn dịch như hóa trị liệu, xạ trị, hoặc sử dụng corticosteroid liều cao,… cần cân nhắc trước khi cho trẻ tiêm chủng bởi không phải loại vaccine nào cũng được khuyến cáo sử dụng.
Khi trẻ bị tiêu chảy cấp hoặc đại tiện quá 4 lần/ngày thì không nên sử dụng vaccine bởi việc trẻ đi ngoài nhiều sẽ nhanh chóng bài tiết vaccine ra khiến cho việc tiêm vaccine mất hết tác dụng. Mặt khác, nếu tiêu chảy do virus sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch của vaccine.
Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất đối với từng loại vaccine./.
Hàng triệu trẻ em Việt Nam được bảo vệ nhờ tiêm chủng trong hơn 40 năm qua
Thông cáo chung kỷ niệm Tuần lễ tiêm chủng thế giới, WHO và UNICEF nhấn mạnh tiêm chủng đã bảo vệ hàng triệu trẻ em tại Việt Nam khỏi nhiều loại bệnh tật trong suốt hơn 40 năm qua.