Sau 3 ngày làm việc sôi nổi và thẳng thắn, Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ 4về Biển Đông với chủ đề 4 “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khuvực” đã thu hút sự tham dự của hơn 200 đại biểu là những học giả, nhà nghiêncứu, chuyên gia, trong đó có khoảng 100 đại biểu quốc tế gồm học giả và quanchức chính phủ đến từ 27 nước và vùng lãnh thổ, gần 30 đại diện ngoại giao đoàntại Việt Nam và các học giả, đại biểu Việt Nam.
Theo ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, hội thảo lần nàyđã diễn ra với chất lượng học thuật rất cao, tinh thần thảo luận thẳng thắn, rấtxây dựng và bắt đầu có nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận trên tinh thần “đặtmình vào vị trí của người khác để suy nghĩ tỉnh táo hơn hành vi của mình.”
Hội thảo đã phân tích, trao đổi sâu hơn về nguyên nhân của căng thẳng tại BiểnĐông, đánh giá các nhân tố tác động tới quá trình hoạch định và triển khai chínhsách Biển Đông ở một số nước; đánh giá sâu hơn về lợi ích và vai trò của các bênliên quan trực tiếp, các bên không liên quan trực tiếp tới tranh chấp tại BiểnĐông.
Đánh giá về tình hình chung, các học giả đều cho rằng Biển Đông đang ngày càngtrở thành tâm điểm sự chú ý của các nước trong và ngoài khu vực do trọng tâmkinh tế, chính trị thế giới đang chuyển dịch về châu Á-Thái Bình Dương và do cácnước lớn như Mỹ, Trung Quốc và các nước khác trong khu vực, đều coi biển làkhông gian an ninh và không gian phát triển quan trọng nhất trong thế kỷ 21. Đâylà một trong những nguyên nhân chính làm cho Biển Đông trong những năm qua diễnbiến ngày càng phức tạp, có lúc tưởng chừng như rơi vào “bế tắc.”
Tại hội thảo, một số học giả cảnh báo, các khác biệt lợi ích giữa các nước thànhviên ASEAN sẽ là thách thức lớn nhất đối với ASEAN trong những năm tới. NếuASEAN không duy trì được đoàn kết nội khối, vai trò của ASEAN trong các cơ chếhợp tác khu vực sẽ sụt giảm thì lợi ích của các nước thành viên ASEAN sẽ bị phớtlờ.
Để xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực, các học giảđã đưa ra nhiều khuyến nghị, theo đó, các quốc gia quanh vùng biển kín và nửakín như Biển Đông cần hợp tác và phối hợp chính sách của mình trong quản lýnguồn sinh vật biển, thực hiện nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trườngbiển. Mặt khác, tùy theo mức độ phù hợp, các nước mời các bên hay các tổchức liên quan để hợp tác.
[“ASEAN hy vọng Trung Quốc thảo luận về Biển Đông”]
Nhiều đại biểu khẳng định kinh nghiệm lịch sử cho thấy sử dụng vũ lực hay đe dọasử dụng vũ lực sẽ không thể giải quyết được các tranh chấp như ở Biển Đông, dovậy các giải pháp hòa bình là con đường duy nhất. Thêm vào đó, cần thúc đẩy vaitrò của ASEAN như nhân tố thúc đẩy đối thoại và hợp tác.
Một số học giả đề xuất các nước nghiên cứu và nhận thức lại về lợi ích quốc giacơ bản của mình ở Biển Đông, cho rằng lợi ích phát triển kinh tế và ổn định xãhội, bảo đảm hòa bình và phát triển khu vực nên đặt lên trên lợi ích mở rộng chủquyền và quyền chủ quyền trên biển. Trong khi tìm kiếm giải pháp lâu dài, điềucấp bách nhất hiện nay là kiểm soát không để bất đồng làm nảy sinh xung đột,khủng hoảng.
Do vậy, các bên cần nhanh chóng xây dựng các cơ chế khu vực nhằmđịnh hướng ứng xử của các bên trong các tình huống cụ thể, như việc xây dựng BộQuy tắc ứng xử ở Biển Đông. Các bên cần làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đôngtrên cơ sở luật pháp quốc tế, minh bạch hóa chính sách và chiến lược quốc gia ởBiển Đông, nhất là chính sách hiện đại hóa quân đội nhằm tăng cường lòng tin.
Trên khía cạnh pháp lý, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của Công ước Luậtbiển 1982, theo đó, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ lãnh thổ đất liềncủa các quốc gia ven biển phải được tôn trọng.
Nhiều học giả nhất trí rằng các thực thể tại Biển Đông, đa phần là các bãi cạnhoặc các đảo nhỏ không có người sinh sống, do vậy ít khó có khả năng tạo ra cácvùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Các học giả đánh giárằng, các đảo nhỏ của Trường Sa và Hoàng Sa sẽ chỉ có 12 hải lý lãnh hải.
Tại hội thảo, nhiều đại biểu cũng đã đề cập và nhấn mạnh, đường lưỡi bò và cáigọi là "quyền lịch sử" của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và gây quan ngạicho các quốc gia có liên quan.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát xung đột và giải quyết tranh chấptại Biển Đông, các học giả khuyến nghị các bên tranh chấp cần hợp tác khảo sátcác điều kiện tự nhiên và địa lý của các thực thể tại Biển Đông nhằm xác địnhquy chế pháp lý của các thực thể này theo quy định của Công ước Luật biển 1982.Trên cơ sở khảo sát đó, các bên trong tranh chấp làm rõ phạm vi các yêu sách vềchủ quyền và vùng biển tại biển Đông.
Đánh giá về những kết quả trên, ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giaoViệt Nam, cho biết sau 3 ngày thảo luận, có rất nhiều kiến nghị cho Chính phủcác nước, có thể tập trung vào 3 nhóm: Thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin,làm rõ các yêu sách theo hướng phù hợp với luật quốc tế, đặc biệt là Luật biển1982; thúc đẩy việc hình thành các cơ chế, khuôn khổ hợp tác khu vực, đặc biệtlà Bộ Quy tắc ứng xử (COC); và kiềm chế, kiềm chế hơn nữa, tuân thủ những điềumình đã cam kết, đặc biệt là những cam kết tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũlực và không đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp thông qua các biệnpháp hòa bình, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, Hiệp ước Thân thiện và Hợptác (TAC), Tuyên bố về ứng xử của các bên liên quan tại Biển Đông (DOC) mà tấtcả các biên liên quan đến tranh chấp đều là thành viên.
Hội thảo do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam phối hợp tổ chức tạiThành phố Hồ Chí Minh đã kết thúc vào chiều 21/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh./.
Theo ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, hội thảo lần nàyđã diễn ra với chất lượng học thuật rất cao, tinh thần thảo luận thẳng thắn, rấtxây dựng và bắt đầu có nhiều ý kiến phát biểu, thảo luận trên tinh thần “đặtmình vào vị trí của người khác để suy nghĩ tỉnh táo hơn hành vi của mình.”
Hội thảo đã phân tích, trao đổi sâu hơn về nguyên nhân của căng thẳng tại BiểnĐông, đánh giá các nhân tố tác động tới quá trình hoạch định và triển khai chínhsách Biển Đông ở một số nước; đánh giá sâu hơn về lợi ích và vai trò của các bênliên quan trực tiếp, các bên không liên quan trực tiếp tới tranh chấp tại BiểnĐông.
Đánh giá về tình hình chung, các học giả đều cho rằng Biển Đông đang ngày càngtrở thành tâm điểm sự chú ý của các nước trong và ngoài khu vực do trọng tâmkinh tế, chính trị thế giới đang chuyển dịch về châu Á-Thái Bình Dương và do cácnước lớn như Mỹ, Trung Quốc và các nước khác trong khu vực, đều coi biển làkhông gian an ninh và không gian phát triển quan trọng nhất trong thế kỷ 21. Đâylà một trong những nguyên nhân chính làm cho Biển Đông trong những năm qua diễnbiến ngày càng phức tạp, có lúc tưởng chừng như rơi vào “bế tắc.”
Tại hội thảo, một số học giả cảnh báo, các khác biệt lợi ích giữa các nước thànhviên ASEAN sẽ là thách thức lớn nhất đối với ASEAN trong những năm tới. NếuASEAN không duy trì được đoàn kết nội khối, vai trò của ASEAN trong các cơ chếhợp tác khu vực sẽ sụt giảm thì lợi ích của các nước thành viên ASEAN sẽ bị phớtlờ.
Để xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực, các học giảđã đưa ra nhiều khuyến nghị, theo đó, các quốc gia quanh vùng biển kín và nửakín như Biển Đông cần hợp tác và phối hợp chính sách của mình trong quản lýnguồn sinh vật biển, thực hiện nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trườngbiển. Mặt khác, tùy theo mức độ phù hợp, các nước mời các bên hay các tổchức liên quan để hợp tác.
[“ASEAN hy vọng Trung Quốc thảo luận về Biển Đông”]
Nhiều đại biểu khẳng định kinh nghiệm lịch sử cho thấy sử dụng vũ lực hay đe dọasử dụng vũ lực sẽ không thể giải quyết được các tranh chấp như ở Biển Đông, dovậy các giải pháp hòa bình là con đường duy nhất. Thêm vào đó, cần thúc đẩy vaitrò của ASEAN như nhân tố thúc đẩy đối thoại và hợp tác.
Một số học giả đề xuất các nước nghiên cứu và nhận thức lại về lợi ích quốc giacơ bản của mình ở Biển Đông, cho rằng lợi ích phát triển kinh tế và ổn định xãhội, bảo đảm hòa bình và phát triển khu vực nên đặt lên trên lợi ích mở rộng chủquyền và quyền chủ quyền trên biển. Trong khi tìm kiếm giải pháp lâu dài, điềucấp bách nhất hiện nay là kiểm soát không để bất đồng làm nảy sinh xung đột,khủng hoảng.
Do vậy, các bên cần nhanh chóng xây dựng các cơ chế khu vực nhằmđịnh hướng ứng xử của các bên trong các tình huống cụ thể, như việc xây dựng BộQuy tắc ứng xử ở Biển Đông. Các bên cần làm rõ yêu sách của mình ở Biển Đôngtrên cơ sở luật pháp quốc tế, minh bạch hóa chính sách và chiến lược quốc gia ởBiển Đông, nhất là chính sách hiện đại hóa quân đội nhằm tăng cường lòng tin.
Trên khía cạnh pháp lý, các học giả nhấn mạnh tầm quan trọng của Công ước Luậtbiển 1982, theo đó, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ lãnh thổ đất liềncủa các quốc gia ven biển phải được tôn trọng.
Nhiều học giả nhất trí rằng các thực thể tại Biển Đông, đa phần là các bãi cạnhoặc các đảo nhỏ không có người sinh sống, do vậy ít khó có khả năng tạo ra cácvùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình. Các học giả đánh giárằng, các đảo nhỏ của Trường Sa và Hoàng Sa sẽ chỉ có 12 hải lý lãnh hải.
Tại hội thảo, nhiều đại biểu cũng đã đề cập và nhấn mạnh, đường lưỡi bò và cáigọi là "quyền lịch sử" của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và gây quan ngạicho các quốc gia có liên quan.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát xung đột và giải quyết tranh chấptại Biển Đông, các học giả khuyến nghị các bên tranh chấp cần hợp tác khảo sátcác điều kiện tự nhiên và địa lý của các thực thể tại Biển Đông nhằm xác địnhquy chế pháp lý của các thực thể này theo quy định của Công ước Luật biển 1982.Trên cơ sở khảo sát đó, các bên trong tranh chấp làm rõ phạm vi các yêu sách vềchủ quyền và vùng biển tại biển Đông.
Đánh giá về những kết quả trên, ông Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giaoViệt Nam, cho biết sau 3 ngày thảo luận, có rất nhiều kiến nghị cho Chính phủcác nước, có thể tập trung vào 3 nhóm: Thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin,làm rõ các yêu sách theo hướng phù hợp với luật quốc tế, đặc biệt là Luật biển1982; thúc đẩy việc hình thành các cơ chế, khuôn khổ hợp tác khu vực, đặc biệtlà Bộ Quy tắc ứng xử (COC); và kiềm chế, kiềm chế hơn nữa, tuân thủ những điềumình đã cam kết, đặc biệt là những cam kết tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũlực và không đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết tranh chấp thông qua các biệnpháp hòa bình, tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, Hiệp ước Thân thiện và Hợptác (TAC), Tuyên bố về ứng xử của các bên liên quan tại Biển Đông (DOC) mà tấtcả các biên liên quan đến tranh chấp đều là thành viên.
Hội thảo do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam phối hợp tổ chức tạiThành phố Hồ Chí Minh đã kết thúc vào chiều 21/11 tại Thành phố Hồ Chí Minh./.
Hoàng Anh Tuấn (TTXVN)