Một cán bộ già miền cao nguyên kể lại giải phóng Điện Biên đã 5 năm, Cao nguyên đá Đồng Văn mênh mông vẫn chưa có đường cho xe ôtô, xe máy chạy, hơn 8 vạn đồng bào phía sau “cổng trời” vẫn trong đói nghèo và lạc hậu.
Trung ương quyết định mở đường Hà Giang-Đồng Văn-Mèo Vạc. Đường được đặt tên là “Hạnh phúc,” dài gần 200km; chạy xuyên qua cao nguyên đá Đồng Văn, qua đỉnh Mã Phí Lèng. Con đường được khởi công ngày 10/9/1959, hoàn thành ngày 10/3/1965.
Đường Hạnh phúc - Con đường của gian khổ, hy sinh, của cả hoa và máu; là huyền thoại về sức trẻ của thanh niên 16 dân tộc thuộc các tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái và Nam Định, Hải Dương trong suốt 8 năm lao động thủ công quên mình với trên 2 triệu ngày công. Riêng ở dốc Mã Pí Lèng - nóc nhà của vùng cao nguyên đá, công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường.
Ông Phạm Đình Dy - Nguyên Trưởng ty Giao thông Hà Giang thời kỳ mở đường Hạnh phúc nhớ lại: "Thanh niên đi phá đá mở đường suốt một ngày được cấp khoảng 1 kg gạo; trong đó dành ra vài ba lạng để mua rau, thức ăn; còn lại khoảng 6-7 lạng để nấu cơm. Tất cả chỉ có vậy, không có thêm một chế độ gì khác. Ngày đó, đất nước còn khó khăn, anh chị em thanh niên bảo nhau căng bạt ven núi để tá túc mà đánh nhau với rừng đá, mở đường."
Một bác già từng là “Kiện tướng đục lỗ troòng” cho biết: "Học xong sơ cấp giao thông, tôi xung phong đi mở đường Hạnh phúc. Độ ấy, chúng tôi chỉ có cái xà beng tám cạnh (troòng) trong tay. Người xoay, người đục, khoét núi đá ra mà dũi, mở đường từng ly, từng tí."
Ở lán, ăn cơm với cá mắm; nước sinh hoạt chia từng ca. Ai cũng hăng say lao động. Trong 8 giờ, có người đục các lỗ troòng khoan vào bụng đá có chiều sâu tổng cộng được 4,7m, được phong “Kiện tướng đục lỗ troòng”.
Ông Thùy, chàng trai đất Hà Nam Ninh trong đội quân xung phong lên mở đường Hạnh phúc - đoạn qua Mã Pí Lèng, bây giờ đã tình nguyện ở lại với đất Hà Giang , vẫn rất tự hào khi nói về nghệ thuật kè đá khan trên công trường ngày ấy, mà theo ông xứng đáng được ghi vào sách kỷ lục quốc gia hay quốc tế.
Ông nói toàn bộ là kè khan hết; nghĩa là đập đá ra, chọn đá rồi kè khít, cho vững thành đường rộng 4,5m cho ôtô đi mà không cần một chất kết dính nào (như kỹ thuật kè đá của người Mông bao đời nay làm tường rào).
Ở những nơi khe đá không cho phép phá rộng, phải kè đá ra phía taluy âm (mép vực) để con đường giật cấp ra mép vực mà vẫn an toàn. Anh em công nhân làm việc kè đá ai cũng đối diện với cái chết bất ngờ; không nói ra, nhưng trong lòng ai cũng nghĩ chỉ khi nào về đến Hà Giang mới chắc là mình đang sống.
Không một phương tiện lao động cơ giới, chỉ sức người và mìn phá đá, anh em trong “Đội cơ dũng” gồm những người ưu tú nhất, sẵn sàng hy sinh; ngày ngày họ như những con “mối dách” treo mình trên các vách đá cao hàng trăm mét trước vực sông Nho Quế mà đục đá, khoan lỗ nhét mìn. Khoan đến đâu, phá đá đến đó; từng cm đường hình thành để vượt qua con dốc dài hơn 10km vào huyện Mèo Vạc.
Có người đã hy sinh không toàn thân xác bởi đá rơi, trượt chân; người chết vì sốt ác tính, bởi bọn thổ phỉ… Nghĩa trang thanh niên xung phong làm đường Hạnh phúc ở huyện lỵ Yên Minh ngày nay là điểm đến mỗi năm một đôi lần giữa các đồng đội (người sống và người đã mất) trong đoàn quân trên đại công trường mở đường Hạnh phúc trước đây.
Hơn 1.000 thanh niên xung phong cùng khoảng 1.200 dân công đến từ 8 tỉnh, thành; hơn 2 triệu ngày công cùng sự trợ giúp của 900.000 tấn thuốc nổ… để gần 8 năm tạo nên một con đường nối từ Hà Giang đến Mèo Vạc - một con đường dân sinh, đi qua những nơi đông dân cư để người dân vùng cao nguyên được hạnh phúc.
Trở lại vùng cao nguyên trong những ngày tháng Tám lịch sử; người, xe đi lại trên con đường mang tên Hạnh phúc ngược xuôi cũng nhiều. Khách tứ phương, khách trong và ngoài nước đến vùng cực Bắc để tận mắt được chiêm ngưỡng sự kỳ vĩ của một vùng cao nguyên đá - Khu Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; được đặt chân đến nơi cao nhất ở vùng cực Bắc đất nước hình chứ S…
Khách là những nhà đầu tư, doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở một vùng đất đá đầy khó khăn, nhưng cũng tiềm tàng khả năng phát triển. Vùng cao nguyên đá đang đổi thay, bà con các dân tộc vùng cao phía Bắc đang từng bước tiến trên con đường hạnh phúc.
Đi trong bừng sáng cao nguyên, giữa sắc đỏ của mầu cờ Tổ quốc, mỗi khi qua các thị trấn, thị tứ lại nhớ về một thời bà con các dân tộc vùng cao sống đói khổ trong kiếp trâu ngựa cho bọn thổ ty, tổng giáp, mã phài dưới thời thực dân, phong kiến.
Người già Mông Vừ Mí Kẻ - nguyên là đại biểu Quốc hội kể lại: Lũng Hòa quê tôi trước đây nghèo lắm, hạt muối ăn, giọt dầu thắp rất hiếm hoi; thuốc phiện trồng nhiều hơn ngô, khoai, mạch ba giác. Ai cũng sợ thổ ty, phản động hơn sợ con hổ thọt trên rừng.
Cả một vùng cao nguyên đá sống như cách biệt với thế giới bên ngoài bởi đường đi lại không có; bọn tay sai phản động, bọn thổ ty thi nhau lừa dân để bóc lột, hùng bá tranh giành ảnh hưởng.
Cách mạng thành Tám thành công, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi; người miền núi và người miền xuôi đã đuổi được thằng giặc Pháp về nước, bọn tay sai phải đầu hàng. Bà con các dân tộc được vui vẻ làm ăn sinh sống. Để miền núi bằng với miền xuôi, Trung ương khi về Việt Bắc đã quyết định làm con đường Hạnh phúc để cho 8 vạn người dân vùng cao phía sau Cổng trời không còn khổ vì không có đường đi lại, sản xuất làm ăn…
Người nghèo ta, bà con vùng cao ta ơn Đảng đời đời. Đó là tiếng nói chung của đồng bào các dân tộc đang làm ăn sinh sống tại 4 huyện vùng cao nguyên đá (Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc) khi được hỏi về cách mạng, về Đảng, về Bác Hồ.
Có độc lập, tự do, có đất, có rừng, có đường giao thông chạy về tới các bản làng xa xôi trên núi cao hay giữa vùng sâu biên giới; bà con các dân tộc Hà Giang nói chung và đồng bào các dân tộc vùng cao núi đá nói riêng có điều kiện sản xuất, giao thương làm ăn buôn bán với các nơi trong tỉnh, trong nước và cả với người dân bên kia biên giới. Kinh tế không còn trong cảnh tự cung tự cấp. Nền kinh tế biệt lập, tự nhiên đang dần bị phá bỏ.
Đến nay, còn sớm để nói cuộc sống của bà con các dân tộc vùng cao nguyên đá đã thoát nghèo. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khát nước và khát đất thường trực trong cuộc sống mỗi hộ gia đình và mỗi con người. Vì thế, trên cả vùng cao nguyên rộng lớn chỉ có trùng trùng đá, dân cư thưa thớt không đáng là bao.
Ngày nay, nói đến tỉnh nghèo nhất nước, người ta nói đến Hà Giang; nói đến huyện nghèo nhất nước, Hà Giang cũng chiếm gần 1/2 trong tổng số 62 huyện nghèo cần được Chính phủ giúp đỡ (chương trình 30a). Tuy nhiên, so với những năm tháng trước đây, sự đổi thay tích cực trong cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân nơi đâylà điều ai cũng nhận thấy.
Huyện Yên Minh đang trên con đường phấn đấu xây dựng thành trung tâm của 4 huyện vùng cao núi đá. Cán bộ, nhân dân trong huyện đang quyết tâm lao động sản xuất để thoát khỏi danh sách 62 huyện nghèo của cả nước.
Từ Yên Minh về Quản Bạ, đến 5 xã biên giới, chúng ta cũng được chứng kiến những đổi thay của một vùng quê biên ải. Bà con dân tộc ít người giờ đây cũng đã làm quen với việc trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao để tiếp cận với sản xuất hàng hoá. Mỗi xã biên giới cũng có từ 3-5 công trình trường học để con em được học cái chữ để thoát đói nghèo.
Đến Đồng Văn, Mèo Vạc, càng có thêm nhiều điều để chúng ta tin vào hạnh phúc ngày mai tươi sáng sẽ đến với bà con trong những bản làng của người Mông trên những đỉnh núi mù sương, hay với những bản của người Tày, Nùng, Dao cạnh những chân ruộng lúa nước hay nương ngô…
Ở Đồng Văn, Mèo Vạc có tới 70% diện tích tự nhiên ở đây là núi đá. Đói nghèo vẫn đeo đẳng trên nửa dân số nơi này. Tuy nhiên, một viễn cảnh về phát triển du lịch với hy vọng người dân địa phương vùng cao núi đá được hưởng lợi để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế xã hội của địa phương đang từng bước hiện hữu.
Mấy năm nay, khách du lịch đến với Hà Giang, đến với Khu Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn ngày một tăng. Núi Cô Tiên, Cổng trời (Quản Bạ); Cột cờ Lũng Cú, Khu nhà Vương, Phố cổ, Chợ phiên (Đồng Văn); Chợ tình Khau Vai (Mèo Vạc) đang là điểm đến hấp dẫn của du khách gần xa.
Trên dòng sông Nho Quế, địa phận xã Khau Vai (Mèo Vạc), nhà máy thủy điện Nho Quế 3 mới khánh thành, nhà máy thủy điện Nho Quế 2 cũng đã được khởi công. Bà con vùng cao nguyên đá có đường, có điện, thêm phương tiện đến với sự văn minh và no đủ.
Rời Cao nguyên Đồng Văn, đi giữa điệp trùng và sự hùng vĩ của thiên nhiên, giữa trùng trùng đá; cảm nhận về sự phi thường của con người lắng mãi trong chúng tôi. Tôi nghĩ về câu chuyện của chàng trai xứ Lạng tình nguyện lên mở đường Hạnh phúc. Anh hy sinh ngày 8/8/1961 do sốt rét ác tính.
Trước khi mất, người thanh niên vẫn tỉnh táo chia tay từng anh em trong tổ và dặn dò “ Tôi sẽ nằm mãi mãi bên vệ đường Đồng Văn. Mai này đường Hạnh phúc mở xong, anh chị em lại về quê hương xứ Lạng. Có còn ai nhớ tôi không? Tôi sẽ nhớ mọi người lắm đấy.”
Đất rừng Hà Giang, bà con các dân tộc Hà Giang, những người đồng đội luôn nhớ đến anh và những người đã ngã xuống cho con đường huyền thoại - Con đường Hạnh phúc.
Tôi lại ước mong về sự hiện hữu của một cụm tượng đài trên vùng cao nguyên đá về những chàng trai cô gái các dân tộc đã dũng cảm, thông minh làm nên con đường huyền thoại./.
Trung ương quyết định mở đường Hà Giang-Đồng Văn-Mèo Vạc. Đường được đặt tên là “Hạnh phúc,” dài gần 200km; chạy xuyên qua cao nguyên đá Đồng Văn, qua đỉnh Mã Phí Lèng. Con đường được khởi công ngày 10/9/1959, hoàn thành ngày 10/3/1965.
Đường Hạnh phúc - Con đường của gian khổ, hy sinh, của cả hoa và máu; là huyền thoại về sức trẻ của thanh niên 16 dân tộc thuộc các tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái và Nam Định, Hải Dương trong suốt 8 năm lao động thủ công quên mình với trên 2 triệu ngày công. Riêng ở dốc Mã Pí Lèng - nóc nhà của vùng cao nguyên đá, công nhân đã treo mình 11 tháng để mở đường.
Ông Phạm Đình Dy - Nguyên Trưởng ty Giao thông Hà Giang thời kỳ mở đường Hạnh phúc nhớ lại: "Thanh niên đi phá đá mở đường suốt một ngày được cấp khoảng 1 kg gạo; trong đó dành ra vài ba lạng để mua rau, thức ăn; còn lại khoảng 6-7 lạng để nấu cơm. Tất cả chỉ có vậy, không có thêm một chế độ gì khác. Ngày đó, đất nước còn khó khăn, anh chị em thanh niên bảo nhau căng bạt ven núi để tá túc mà đánh nhau với rừng đá, mở đường."
Một bác già từng là “Kiện tướng đục lỗ troòng” cho biết: "Học xong sơ cấp giao thông, tôi xung phong đi mở đường Hạnh phúc. Độ ấy, chúng tôi chỉ có cái xà beng tám cạnh (troòng) trong tay. Người xoay, người đục, khoét núi đá ra mà dũi, mở đường từng ly, từng tí."
Ở lán, ăn cơm với cá mắm; nước sinh hoạt chia từng ca. Ai cũng hăng say lao động. Trong 8 giờ, có người đục các lỗ troòng khoan vào bụng đá có chiều sâu tổng cộng được 4,7m, được phong “Kiện tướng đục lỗ troòng”.
Ông Thùy, chàng trai đất Hà Nam Ninh trong đội quân xung phong lên mở đường Hạnh phúc - đoạn qua Mã Pí Lèng, bây giờ đã tình nguyện ở lại với đất Hà Giang , vẫn rất tự hào khi nói về nghệ thuật kè đá khan trên công trường ngày ấy, mà theo ông xứng đáng được ghi vào sách kỷ lục quốc gia hay quốc tế.
Ông nói toàn bộ là kè khan hết; nghĩa là đập đá ra, chọn đá rồi kè khít, cho vững thành đường rộng 4,5m cho ôtô đi mà không cần một chất kết dính nào (như kỹ thuật kè đá của người Mông bao đời nay làm tường rào).
Ở những nơi khe đá không cho phép phá rộng, phải kè đá ra phía taluy âm (mép vực) để con đường giật cấp ra mép vực mà vẫn an toàn. Anh em công nhân làm việc kè đá ai cũng đối diện với cái chết bất ngờ; không nói ra, nhưng trong lòng ai cũng nghĩ chỉ khi nào về đến Hà Giang mới chắc là mình đang sống.
Không một phương tiện lao động cơ giới, chỉ sức người và mìn phá đá, anh em trong “Đội cơ dũng” gồm những người ưu tú nhất, sẵn sàng hy sinh; ngày ngày họ như những con “mối dách” treo mình trên các vách đá cao hàng trăm mét trước vực sông Nho Quế mà đục đá, khoan lỗ nhét mìn. Khoan đến đâu, phá đá đến đó; từng cm đường hình thành để vượt qua con dốc dài hơn 10km vào huyện Mèo Vạc.
Có người đã hy sinh không toàn thân xác bởi đá rơi, trượt chân; người chết vì sốt ác tính, bởi bọn thổ phỉ… Nghĩa trang thanh niên xung phong làm đường Hạnh phúc ở huyện lỵ Yên Minh ngày nay là điểm đến mỗi năm một đôi lần giữa các đồng đội (người sống và người đã mất) trong đoàn quân trên đại công trường mở đường Hạnh phúc trước đây.
Hơn 1.000 thanh niên xung phong cùng khoảng 1.200 dân công đến từ 8 tỉnh, thành; hơn 2 triệu ngày công cùng sự trợ giúp của 900.000 tấn thuốc nổ… để gần 8 năm tạo nên một con đường nối từ Hà Giang đến Mèo Vạc - một con đường dân sinh, đi qua những nơi đông dân cư để người dân vùng cao nguyên được hạnh phúc.
Trở lại vùng cao nguyên trong những ngày tháng Tám lịch sử; người, xe đi lại trên con đường mang tên Hạnh phúc ngược xuôi cũng nhiều. Khách tứ phương, khách trong và ngoài nước đến vùng cực Bắc để tận mắt được chiêm ngưỡng sự kỳ vĩ của một vùng cao nguyên đá - Khu Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; được đặt chân đến nơi cao nhất ở vùng cực Bắc đất nước hình chứ S…
Khách là những nhà đầu tư, doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở một vùng đất đá đầy khó khăn, nhưng cũng tiềm tàng khả năng phát triển. Vùng cao nguyên đá đang đổi thay, bà con các dân tộc vùng cao phía Bắc đang từng bước tiến trên con đường hạnh phúc.
Đi trong bừng sáng cao nguyên, giữa sắc đỏ của mầu cờ Tổ quốc, mỗi khi qua các thị trấn, thị tứ lại nhớ về một thời bà con các dân tộc vùng cao sống đói khổ trong kiếp trâu ngựa cho bọn thổ ty, tổng giáp, mã phài dưới thời thực dân, phong kiến.
Người già Mông Vừ Mí Kẻ - nguyên là đại biểu Quốc hội kể lại: Lũng Hòa quê tôi trước đây nghèo lắm, hạt muối ăn, giọt dầu thắp rất hiếm hoi; thuốc phiện trồng nhiều hơn ngô, khoai, mạch ba giác. Ai cũng sợ thổ ty, phản động hơn sợ con hổ thọt trên rừng.
Cả một vùng cao nguyên đá sống như cách biệt với thế giới bên ngoài bởi đường đi lại không có; bọn tay sai phản động, bọn thổ ty thi nhau lừa dân để bóc lột, hùng bá tranh giành ảnh hưởng.
Cách mạng thành Tám thành công, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi; người miền núi và người miền xuôi đã đuổi được thằng giặc Pháp về nước, bọn tay sai phải đầu hàng. Bà con các dân tộc được vui vẻ làm ăn sinh sống. Để miền núi bằng với miền xuôi, Trung ương khi về Việt Bắc đã quyết định làm con đường Hạnh phúc để cho 8 vạn người dân vùng cao phía sau Cổng trời không còn khổ vì không có đường đi lại, sản xuất làm ăn…
Người nghèo ta, bà con vùng cao ta ơn Đảng đời đời. Đó là tiếng nói chung của đồng bào các dân tộc đang làm ăn sinh sống tại 4 huyện vùng cao nguyên đá (Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc) khi được hỏi về cách mạng, về Đảng, về Bác Hồ.
Có độc lập, tự do, có đất, có rừng, có đường giao thông chạy về tới các bản làng xa xôi trên núi cao hay giữa vùng sâu biên giới; bà con các dân tộc Hà Giang nói chung và đồng bào các dân tộc vùng cao núi đá nói riêng có điều kiện sản xuất, giao thương làm ăn buôn bán với các nơi trong tỉnh, trong nước và cả với người dân bên kia biên giới. Kinh tế không còn trong cảnh tự cung tự cấp. Nền kinh tế biệt lập, tự nhiên đang dần bị phá bỏ.
Đến nay, còn sớm để nói cuộc sống của bà con các dân tộc vùng cao nguyên đá đã thoát nghèo. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khát nước và khát đất thường trực trong cuộc sống mỗi hộ gia đình và mỗi con người. Vì thế, trên cả vùng cao nguyên rộng lớn chỉ có trùng trùng đá, dân cư thưa thớt không đáng là bao.
Ngày nay, nói đến tỉnh nghèo nhất nước, người ta nói đến Hà Giang; nói đến huyện nghèo nhất nước, Hà Giang cũng chiếm gần 1/2 trong tổng số 62 huyện nghèo cần được Chính phủ giúp đỡ (chương trình 30a). Tuy nhiên, so với những năm tháng trước đây, sự đổi thay tích cực trong cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân nơi đâylà điều ai cũng nhận thấy.
Huyện Yên Minh đang trên con đường phấn đấu xây dựng thành trung tâm của 4 huyện vùng cao núi đá. Cán bộ, nhân dân trong huyện đang quyết tâm lao động sản xuất để thoát khỏi danh sách 62 huyện nghèo của cả nước.
Từ Yên Minh về Quản Bạ, đến 5 xã biên giới, chúng ta cũng được chứng kiến những đổi thay của một vùng quê biên ải. Bà con dân tộc ít người giờ đây cũng đã làm quen với việc trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao để tiếp cận với sản xuất hàng hoá. Mỗi xã biên giới cũng có từ 3-5 công trình trường học để con em được học cái chữ để thoát đói nghèo.
Đến Đồng Văn, Mèo Vạc, càng có thêm nhiều điều để chúng ta tin vào hạnh phúc ngày mai tươi sáng sẽ đến với bà con trong những bản làng của người Mông trên những đỉnh núi mù sương, hay với những bản của người Tày, Nùng, Dao cạnh những chân ruộng lúa nước hay nương ngô…
Ở Đồng Văn, Mèo Vạc có tới 70% diện tích tự nhiên ở đây là núi đá. Đói nghèo vẫn đeo đẳng trên nửa dân số nơi này. Tuy nhiên, một viễn cảnh về phát triển du lịch với hy vọng người dân địa phương vùng cao núi đá được hưởng lợi để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế xã hội của địa phương đang từng bước hiện hữu.
Mấy năm nay, khách du lịch đến với Hà Giang, đến với Khu Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn ngày một tăng. Núi Cô Tiên, Cổng trời (Quản Bạ); Cột cờ Lũng Cú, Khu nhà Vương, Phố cổ, Chợ phiên (Đồng Văn); Chợ tình Khau Vai (Mèo Vạc) đang là điểm đến hấp dẫn của du khách gần xa.
Trên dòng sông Nho Quế, địa phận xã Khau Vai (Mèo Vạc), nhà máy thủy điện Nho Quế 3 mới khánh thành, nhà máy thủy điện Nho Quế 2 cũng đã được khởi công. Bà con vùng cao nguyên đá có đường, có điện, thêm phương tiện đến với sự văn minh và no đủ.
Rời Cao nguyên Đồng Văn, đi giữa điệp trùng và sự hùng vĩ của thiên nhiên, giữa trùng trùng đá; cảm nhận về sự phi thường của con người lắng mãi trong chúng tôi. Tôi nghĩ về câu chuyện của chàng trai xứ Lạng tình nguyện lên mở đường Hạnh phúc. Anh hy sinh ngày 8/8/1961 do sốt rét ác tính.
Trước khi mất, người thanh niên vẫn tỉnh táo chia tay từng anh em trong tổ và dặn dò “ Tôi sẽ nằm mãi mãi bên vệ đường Đồng Văn. Mai này đường Hạnh phúc mở xong, anh chị em lại về quê hương xứ Lạng. Có còn ai nhớ tôi không? Tôi sẽ nhớ mọi người lắm đấy.”
Đất rừng Hà Giang, bà con các dân tộc Hà Giang, những người đồng đội luôn nhớ đến anh và những người đã ngã xuống cho con đường huyền thoại - Con đường Hạnh phúc.
Tôi lại ước mong về sự hiện hữu của một cụm tượng đài trên vùng cao nguyên đá về những chàng trai cô gái các dân tộc đã dũng cảm, thông minh làm nên con đường huyền thoại./.
Công Hải (TTXVN)