Họp UBTV Quốc hội: Nghiên cứu cơ chế ưu đãi vượt trội cho công nghiệp bán dẫn

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu phải xác định trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối bán dẫn là công nghệ chiến lược và mục tiêu của Việt Nam đến năm 2030 phải từng bước làm chủ.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 41, sáng 6/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.

Trình bày Báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết về nội hàm công nghệ số và phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, có ý kiến đề nghị làm rõ nội hàm công nghệ số theo hướng xác định bản chất thay vì liệt kê các công nghệ cụ thể.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, thuật ngữ "công nghệ số" tại khoản 1 Điều 3 được chỉnh lý, quy định bản chất, làm rõ nội hàm, không liệt kê công nghệ cụ thể nhằm khái quát, bảo đảm tính ổn định của pháp luật.

Về tài sản số (Điều 13 và Điều 14), có ý kiến cho rằng đây là vấn đề mới, thay đổi nhanh cần có sự đầu tư nghiên cứu, rà soát kỹ hơn và nên giao Chính phủ quy định chi tiết; ý kiến khác cho rằng cần nghiên cứu để bổ sung quy định về các loại tài sản số trong dự thảo Luật.

Để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện nội dung này, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã phối hợp tổ chức làm việc với các cơ quan chuyên môn có liên quan.

Qua nghiên cứu, trao đổi, thảo luận, Thường trực Ủy ban thấy rằng tài sản số là vấn đề mới, phức tạp, phát triển, thay đổi nhanh chóng; hiện nay trên thế giới cũng chưa có khung pháp lý quy định đầy đủ về vấn đề này và vẫn còn có quan điểm khác nhau.

Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, thống nhất quy định khung về vấn đề này (Điều 13 và Điều 14) như khái niệm, phân loại tài sản số dựa trên mục đích sử dụng, công nghệ và các tiêu chí khác; giao Chính phủ quy định phân loại, thẩm quyền, nội dung quản lý tài sản số, cung ứng dịch vụ tài sản số phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Về ưu đãi cho công nghiệp bán dẫn (Điều 44 và Điều 59), ông Lê Quang Huy cho biết để thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng, nắm bắt được thời cơ phát triển công nghiệp bán dẫn, cần nghiên cứu, bổ sung các cơ chế ưu đãi thực sự vượt trội, có tính đột phá, tạo lợi thế cạnh tranh.

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, một số quy định ưu đãi đối với công nghiệp bán dẫn trong dự thảo Luật đã được chỉnh lý.

Điểm c khoản 3 Điều 44 quy định chi phí thực tế cho hoạt động nghiên cứu - phát triển lĩnh vực bán dẫn của doanh nghiệp được tính bằng 150% khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Điểm e khoản 3 Điều 44 quy định Nhà nước hỗ trợ trực tiếp chi phí không quá 10% tổng đầu tư của dự án để đầu tư xây dựng nhà máy, hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị máy móc từ nguồn chi đầu tư phát triển từ ngân sách.

Khoản 5 Điều 59 quy định bổ sung điểm c khoản 2 Điều 20 Luật Đầu tư về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, dự án nghiên cứu và phát triển, thiết kế, sản xuất, đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn.

ttxvn-0601-uy-ban-thuong-vu-quoc-hoi-lam-viec-2.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng đề nghị tiếp tục rà soát để làm rõ phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Theo ông Hoàng Thanh Tùng, nội hàm của khái niệm công nghiệp công nghệ số, công nghiệp số về cơ bản không có sự thay đổi so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8. Khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật quy định công nghệ số bao gồm công nghệ thông tin và các công nghệ số thế hệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây.

Như vậy, khái niệm công nghệ số được hiểu là nội hàm của công nghiệp công nghệ số bao trùm hoàn toàn lên công nghệ thông tin, trong khi đó Luật Công nghệ thông tin hiện nay đang điều chỉnh toàn diện lĩnh vực công nghệ thông tin, trong đó bao gồm ngành công nghiệp công nghệ thông tin.

Các công nghệ số thế hệ mới trong dự thảo Luật như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây... đã được quy định trong danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và được điều chỉnh bởi Luật Công nghệ cao. Do đó, nếu quy định như dự thảo Luật thì chắc chắn có sự chồng lấn với quy định của Luật Công nghệ thông tin và Luật Công nghệ cao.

Liên quan đến tài sản số, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho rằng, đây là vấn đề mới, biến động rất nhanh do đó chỉ quy định nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định chi tiết.

ttxvn-0601-uy-ban-thuong-vu-quoc-hoi-4.jpg
Phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ vừa qua Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là Nghị quyết rất quan trọng, tới đây Bộ Chính trị sẽ chủ trì triển khai quán triệt Nghị quyết này.

Chủ tịch Quốc hội lưu ý dự thảo Luật này được soạn thảo ở thời điểm chưa có Nghị quyết 57-NQ/TW. Do đó, khi trình dự thảo Luật tại Kỳ họp thứ 9 cần bổ sung thêm, bám sát tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW để Luật thực sự tạo đột phá cho phát triển công nghệ số.

Chủ tịch Quốc hội yêu cầu cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra chuẩn bị các phương án để điều chỉnh những vấn đề mới mang tính thời sự như Internet vạn vật, công nghệ chuỗi khối, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp bán dẫn...; phải xác định trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối bán dẫn là công nghệ chiến lược và mục tiêu của Việt Nam đến năm 2030 phải từng bước làm chủ./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Hoàn thiện chính sách, tạo đột phá cho phát triển công nghiệp công nghệ số

Phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về nhiều vấn đề như hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số, quy định tài sản số, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, quy định về công nghiệp bán dẫn, quy định về trí tuệ nhân tạo để đảm bảo tính khả thi, kiểm soát rủi ro