Chiều 1/6, tại Hà Nội, đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Nhà thầu Marubeni của Nhật Bản đã ký hợp đồng gói thầu số 2 xây dựng nhà máy chính thuộc dự án Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 1 theo hình thức hợp đồng EPC, với giá trị hơn 980 triệu USD.
Dự án sử dụng 85% vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA).
Dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 1 do EVN làm chủ đầu tư, là một trong hai nhà máy của Trung tâm Nhiệt điện Nghi Sơn, thuộc Qui hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến 2025 (Tổng sơ đồ 6), đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2007.
Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1 có tổng công suất lắp đặt 600 MW, sản lượng điện sản xuất hàng năm 3,6 tỷ kWh, được xây dựng tại xã Hải Hà và Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa thuộc khu kinh tế Nghi Sơn.
Nhà máy sử dụng nhiên liệu than, công nghệ đốt than hiện đại phù hợp với than Antraxit Việt Nam và đã được kiểm chứng. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết kế, xây dựng nhà máy nhằm đảm bảo tính ổn định, an toàn và các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
Nhiên liệu sử dụng cho nhà máy là than nội địa, mỗi năm tiêu thụ khoảng 1,6 triệu tấn than.
Theo thỏa thuận, sau khi hợp đồng EPC có hiệu lực, nhà máy được hoàn thành và đưa vào vận hành thương mại tổ máy 1 trong quí 4/2013 (trong vòng 39 tháng) và tổ máy 2 vào quí 2/2014 (trong vòng 43 tháng)./.
Dự án sử dụng 85% vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA).
Dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 1 do EVN làm chủ đầu tư, là một trong hai nhà máy của Trung tâm Nhiệt điện Nghi Sơn, thuộc Qui hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến 2025 (Tổng sơ đồ 6), đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2007.
Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1 có tổng công suất lắp đặt 600 MW, sản lượng điện sản xuất hàng năm 3,6 tỷ kWh, được xây dựng tại xã Hải Hà và Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa thuộc khu kinh tế Nghi Sơn.
Nhà máy sử dụng nhiên liệu than, công nghệ đốt than hiện đại phù hợp với than Antraxit Việt Nam và đã được kiểm chứng. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết kế, xây dựng nhà máy nhằm đảm bảo tính ổn định, an toàn và các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.
Nhiên liệu sử dụng cho nhà máy là than nội địa, mỗi năm tiêu thụ khoảng 1,6 triệu tấn than.
Theo thỏa thuận, sau khi hợp đồng EPC có hiệu lực, nhà máy được hoàn thành và đưa vào vận hành thương mại tổ máy 1 trong quí 4/2013 (trong vòng 39 tháng) và tổ máy 2 vào quí 2/2014 (trong vòng 43 tháng)./.
Mai Phương (TTXVN/Vietnam+)