Hoàn thiện pháp lý phát triển khu công nghệ thông tin tập trung

Hơn 15 năm thực thi chính sách pháp luật về khu tập trung, với các chủ trương, ưu đãi của Nhà nước, các khu công nghệ thông tin tập trung tại Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định.
Đại biểu tham quan VNPT IDC Hòa Lạc. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Hơn 15 năm thực thi chính sách pháp luật về khu tập trung, với các chủ trương, ưu đãi của Nhà nước, các khu công nghệ thông tin tập trung tại Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định, với 7 khu công nghệ thông tin tập trung hoạt động theo quy định tại Nghị định 154/2013/NĐ-CP trên phạm vi cả nước.

Bảy khu công nghệ thông tin tập trung gồm Khu Công nghệ Thông tin tập trung Cầu Giấy, Công viên Phần mềm Đà Nẵng, Công viên Phần mềm Quang Trung, Khu Phức hợp Văn phòng FPT Đà Nẵng và 3 khu đang trong quá trình đầu tư xây dựng hạ tầng là Công viên công nghệ phần mềm Hà Nội, Khu Công nghệ Thông tin tập trung Đà Nẵng, Khu Công nghệ Thông tin tập trung Cần Thơ.

Từ thực tiễn triển khai và đi vào hoạt động của các khu công nghệ thông tin tập trung đã cho thấy phát sinh nhiều tồn tại, bất cập như sự phát triển khu công nghệ thông tin tập trung chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một số thành phố lớn; chính sách pháp luật về khu công nghệ thông tin tập trung cũng chưa theo kịp yêu cầu phát triển; quản lý về khu công nghệ thông tin tập trung còn một số bất cập; chưa có sự ưu tiên, bố trí đủ nguồn lực đầu tư phát triển khu công nghệ thông tin tập trung... dẫn tới việc thu hút đầu tư phát triển khu công nghệ thông tin tập trung có nhiều khó khăn.

Cụ thể như đối tượng khách hàng bị hạn chế khi chỉ được thu hút các dự án lĩnh vực công nghệ thông tin; các yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng, môi trường làm việc đối với khu công nghệ thông tin tập trung cao hơn các loại hình khu khác dẫn đến tỷ suất đầu tư cao. Tất cả các yếu tố này làm tăng nguy cơ rủi ro cho doanh nghiệp khi đầu tư phát triển khu công nghệ thông tin tập trung.

Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Huy Dũng, để đáp ứng nhu cầu phát triển và thực tiễn khách quan, bộ này vừa xây dựng dự thảo Nghị định quy định về khu công nghệ thông tin tập trung và lấy ý kiến đóng góp hoàn thiện của các cơ quan, đơn vị hữu quan, hướng tới việc tạo hành lang pháp lý để xây dựng và phát triển các khu công nghệ thông tin tập trung nhằm tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp lĩnh vực công nghệ thông tin hoạt động; tạo vườn ươm cho doanh nghiệp mới phát triển, cho hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; hình thành các trung tâm đào tạo nhân lực công nghệ số phục vụ cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Phản hồi đề xuất của Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng việc thành lập, mở rộng khu công nghệ thông tin tập trung đồng thời là quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng dường như là quy định chưa phù hợp ở dự thảo. Bởi lẽ, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng là thủ tục riêng rẽ, bắt buộc phải thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư bao gồm các nội dung về thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục; thủ tục thành lập, mở rộng khu công nghệ thông tin tập trung dường như không cần thiết, có tính chất trùng lặp với các bước khác.

Ngoài ra, đối chiếu với Nghị định 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ về khu công nghiệp, khu kinh tế có quy định 2 bước, là: phải có trong quy hoạch và cần có thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Nghị định 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ bổ sung thêm các tiêu chí, điều kiện cần xem xét khi thực hiện chủ trương đầu tư, tương tự như các điều kiện trong thủ tục thành lập, mở rộng khu công nghệ thông tin tập trung tại dự thảo.

Làng Phần mềm tại Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc. (Nguồn: TTXVN)

Do vậy, để đảm bảo cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư, đại diện Ban pháp chế (VCCI) đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định về thủ tục thành lập, mở rộng khu công nghệ thông tin tập trung và tích hợp các tiêu chí, điều kiện vào thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật đầu tư.

Về đầu tư hạ tầng thứ cấp bằng nguồn vốn tư nhân, dự thảo mới quy định Ủy ban Nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư không qua đấu giá, đấu thầu với dự án đầu tư hạ tầng thứ cấp bằng nguồn vốn tư nhân. Quy định này chưa phù hợp, chẳng hạn trong trường hợp có nhiều nhà đầu tư cùng muốn tham gia đầu tư sẽ không áp dụng được quy định này.

Ngoài ra, Luật Đầu tư cũng quy định cụ thể các hình thức lựa chọn nhà đầu tư. Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi lại quy định này, cân nhắc áp dụng dẫn chiếu Luật Đầu tư. Cuối cùng, liên quan tới quy định đầu tư hạ tầng khu công nghệ thông tin bằng nguồn vốn tư nhân, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế (VCCI), cho hay dự thảo quy định việc việc xây dựng khu công nghệ thông tin bằng vốn tư nhân thực hiện theo Điều 29.1 Luật Đầu tư.

Luật Đất đai đã quy định khu công nghệ tập trung là một trong các trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Do đó có thể áp dụng quy định về đấu giá quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định về đấu thầu sẽ gặp khó khăn nếu quy định như trong dự thảo vì Luật Đầu tư cho phép áp dụng đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đấu thầu, Luật Đấu thầu lại chia ra hai trường hợp áp dụng là theo pháp luật đất đai hoặc là theo pháp luật chuyên ngành.

Như vậy, quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư trong Luật Đấu thầu và Luật Đất đai lại đang giao cho pháp luật chuyên ngành quy định trường hợp áp dụng. Khi đó, để có thể áp dụng các quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, dự thảo cần bổ sung quy định cụ thể cho phép đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp tập trung. Việc bổ sung quy định này đảm bảo nhiều phương thức lựa chọn nhà đầu tư cho dự án, phù hợp với các trường hợp khác nhau.

Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định cụ thể theo hướng dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu công nghệ thông tin bằng nguồn vốn tư nhân được áp dụng quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.

VCCI đề xuất bỏ quy định về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghệ thông tin tập trung; sửa quy định dự án đầu tư vào khu có sử dụng đất phải thực hiện chủ trương chấp thuận đầu tư theo hướng các nhà đầu tư thứ cấp sẽ thuê đất từ doanh nghiệp đầu tư hạ tầng mà không phải thực hiện thủ tục chấp thuận đầu tư; quy định các tiêu chí công nhận khu công nghệ thông tin bao gồm các hoạt động trong khu, lao động chuyên môn, diện tích tối thiểu và phân khu chức năng.

Dự thảo quy định hồ sơ phải có các nội dung như báo cáo đánh giá hiệu quả đầu tư, báo cáo tài chính, báo cáo đánh giá tác động kinh tế-xã hội và môi trường, bản mô tả phương hướng phát triển. Yêu cầu này là không phù hợp và có nhiều tiêu chí khó định lượng, xác định cụ thể, không rõ như thế nào là đạt và không đạt. Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ và bỏ các thành phần hồ sơ này.

Theo VCCI, quy định quyền hạn của đơn vị quản lý với một số chức năng như quản lý hoạt động trong khu, xúc tiến và thu hút đầu tư… còn tương đối đơn giản. Các doanh nghiệp khi đầu tư vào khu tập trung có mong muốn được giảm thiểu thời gian, chi phí thực hiện thủ tục hành chính khi có thể thực hiện thủ tục với một đầu mối nhất định, chính là đơn vị quản lý khu.

Quy định tại dự thảo sẽ không giải quyết được nhu cầu này của doanh nghiệp, giảm tính hiệu quả, hấp dẫn của khu công nghệ thông tin tập trung. Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, nghiên cứu bổ sung quyền hạn của đơn vị này; trong đó, trao nhiều quyền hoặc cho phép nhận phân cấp/uỷ quyền từ các bộ, Ủy ban Nhân dân tỉnh về các thủ tục hành chính trong khu, tương tự như quy định về ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế tại NĐ 35/2022/NĐ-CP.

Cuối cùng, về thủ tục hành chính, dự thảo chưa quy định rõ về các thành phần của thủ tục như đối tượng thực hiện; mẫu văn bản.... VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung các thành phần thủ tục hành chính, đảm bảo yêu cầu tại Nghị định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát các thủ tục hành chính./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục