Hoạch định chiến lược để đưa gạo Việt Nam vươn ra thế giới

Để gạo Việt Nam phát triển bền vững, tiếp tục vươn ra thế giới thì rất cần có sự chủ động trong hoạch định chiến lược sản xuất, nắm bắt thông tin thị trường, nâng sức cạnh tranh của ngành gạo.

Lúa gạo là một trong các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh An Giang. (Ảnh: Thanh Sang/TTXVN)
Lúa gạo là một trong các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh An Giang. (Ảnh: Thanh Sang/TTXVN)

Ngành lúa gạo Việt Nam đã tạo nên lịch sử xuyên suốt trăm năm. Là một ngành hàng có thể xuất khẩu từ những năm đầu thế kỷ 20, bước qua giai đoạn "trầm" của nạn đói 1945 và có thể trở lại thời hoàng kim về xuất khẩu gạo như hiện nay, chính là một nỗ lực lớn của người trồng lúa, các nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp ngành lúa gạo.

Mặc dù vậy, để gạo Việt Nam phát triển bền vững, tiếp tục vươn ra thế giới thì rất cần có sự chủ động trong hoạch định chiến lược sản xuất, nắm bắt thông tin thị trường, nâng sức cạnh tranh của ngành gạo.

Thăng trầm ngành lúa gạo

Ngược dòng lịch sử, trở về những năm đầu thế kỷ 20, Giáo sư-Tiến sỹ Bùi Chí Bửu, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam, chia sẻ Việt Nam đã đặt dấu mốc xuất khẩu gạo lần đầu tiên ra thế giới với sản lượng 1 triệu tấn vào năm 1910.

Sau đó sản lượng xuất khẩu tăng dần đến năm 1939 đạt đỉnh là 2 triệu tấn/năm. Từ đó về sau đến năm 1988, là nốt trầm của toàn ngành gạo, mà dấu ấn không thể quên chính là nạn đói năm 1945.

Ông Bùi Chí Bửu tâm tư phải nhìn nhận rằng con đường lúa gạo Việt Nam vốn không bằng phẳng, mà nó trải qua nhiều đau thương, nỗ lực mới có được một tương lai tươi sáng như ngày hôm nay. Trải qua giai đoạn khó khăn, ngành lúa gạo Việt Nam mới có thể dần lấy lại vị thế.

Ông Bùi Chí Bửu chia sẻ ngành lúa gạo Việt Nam đã gây kinh ngạc cho các quốc gia khác. Thập niên 1980, Đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt sản lượng lúa 5-6 triệu tấn/năm, nhưng giai đoạn 2005-2006 vượt qua ngưỡng 20 triệu tấn và đến nay đạt 24-25 triệu tấn/năm.

Bằng nhiều nỗ lực, cùng với sự ra đời của Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1977, Viện lúa đã thực hiện chiến lược là trồng lúa trước lũ và sau lũ.

giong-lua.jpg
Giống lúa OM29 là giống triển vọng được Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long đề xuất đến nông dân, doanh nghiệp. (Ảnh: Thu Hiền/TTXVN)

Cũng trong thời gian này, Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã lai tạo được giống lúa mới dựa trên nền tảng lúa mùa trong nước với giống lúa viện trợ từ Viện Lúa quốc tế IRRI, giống Ấn Độ, thành giống đột biến 90 ngày, khoảng 200 tổ hợp lai mỗi năm, đưa vào sản xuất đại trà vào năm 1985, với các giống OM269 duyên hải Nam Trung bộ, OM1490, OM4900, OM2517, AS996 tại Đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ đó mà Việt Nam đã xuất khẩu gạo trở lại vào năm 1989, GS. TS Bùi Chí Bửu chia sẻ.

Thế nhưng, hiện nay, ngành gạo Việt Nam đang rơi vào gọng kìm giá lúa giảm, giá gạo thế giới cũng giảm, gây bất lợi cho người trồng lúa và cả doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Các chuyên gia đánh giá, ngành lúa gạo Việt Nam không đứng ngoài ngành hàng lương thực toàn cầu. Có thể năm 2024 là một năm hoàng kim của lúa gạo Việt Nam, bởi Việt Nam bán ra trong khi thị trường lúa gạo thế giới lại đang mua vào vì đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Điển hình là Ấn Độ - quốc gia có nguồn gạo lớn nhất thế giới - đóng cửa xuất khẩu cũng để đảm bảo an ninh lương thực cho nước họ.

Ông Nguyễn Quang Hòa, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Dương Vũ, cho biết hiện nay Ấn Độ mở cửa xuất khẩu gạo, với lượng tồn kho lên gần 30 triệu tấn, không những vậy, Thái Lan cũng bắt đầu xuất khẩu trở lại gạo thơm, đây là trở ngại của gạo Việt Nam khi mang gạo thơm cạnh tranh với gạo cấp thấp của Ấn Độ về giá, hay gạo thơm Việt Nam cạnh tranh với gạo chất lượng cao của Thái Lan về chất lượng.

Gọng kìm này tạo cho gạo Việt Nam bài toán phải nhìn lại vấn đề cạnh tranh về khẩu vị hay cạnh tranh về chất lượng. Nông dân và doanh nghiệp Việt Nam phải chung tay nhìn lại, sản xuất loại gạo nào giá thành thấp, sản lượng cao, người tiêu dùng thế giới cần nhiều nhất mới có thể nâng cao lợi nhuận cho các bên sản xuất và tiêu thụ gạo.

ttxvn-lua-st25.jpg
Bà con nông dân huyện Kon Plông thu hoạch lúa ST25 trồng vụ Đông-Xuân. (Ảnh: TTXVN phát)

Nhìn nhận vấn đề này, Tiến sỹ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, cũng đồng tình, nếu phân chia gạo chất lượng cao và gạo chế biến, thì vô tình đưa các giống lúa hiện nay của Việt Nam vào thế bí trong tiêu thụ và lựa chọn thị trường.

Ví dụ như: gạo Việt Nam chủ yếu tiêu thụ tại thị trường châu Á, châu Phi và một phần thị trường Mỹ, châu Âu cho cộng đồng người Việt, người châu Á tại đây.

Trong khi đó, bếp ăn công nghiệp tại Mỹ và châu Âu mới là nguồn tiêu thụ lớn. Các kênh này lại rất ngại thay đổi loại gạo, vì liên quan đến khẩu vị chung của người lao động. Chỉ cần thay đổi loại gạo, đương nhiên dẫn theo thay đổi lượng nước nấu, cũng như thay đổi khẩu vị các loại thức ăn kèm theo trong bữa ăn đó.

Hoặc loại gạo tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản, các nhà hàng Nhật khắp thế giới, chỉ dùng loại gạo cho cơm dẻo khô để làm sushi, không thể loại nào khác.

Chính vì vậy, Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long bắt buộc phải phân chia nhiều loại giống lúa cung ứng theo phân khúc thị trường, nắm bắt khẩu vị của thị trường mới nâng cao cơ hội phát triển cho hạt gạo Việt.

Sản xuất và tiêu thụ là 2 mặt gắn liền để cùng sinh lợi nhuận và phát triển. Để cả nông dân, doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chính phủ chủ động hơn trong ngành hàng lúa gạo, thì việc nắm bắt thông tin thị trường luôn là điều cần thiết, tiên phong để hoạch định sản xuất.

Cho đến nay, nông dân cũng chỉ mang gạo mình có đi bán, chứ chưa chủ động làm gạo thị trường cần. Ông Nguyễn Quang Hòa nhấn mạnh buôn bán là phải sinh lợi nhuận, nhưng doanh nghiệp ngành hàng gạo hiện nay phải canh giá từng ngày, chào giá sát sàn mới giữ được đầu mối tiêu thụ.

ttxvn-xuat-khau-gao.jpg
Vận chuyển gạo xuất khẩu. (Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN)

Vì vậy, nhu cầu thị trường luôn quyết định sản xuất và xuất khẩu của ngành hàng lúa gạo Việt Nam. Có những loại gạo rất được ưa chuộng như OM4900 hay IR4625, giá thành sản xuất ngang giống IR50404, thời gian sinh trưởng ngắn, giá bán ngang gạo chất lượng cao, được dùng cho chế biến, mà thị trường Trung Quốc lựa chọn nhiều lại chưa được chú trọng, nguồn cung ít ỏi. Đây là điều bất hợp lý giữa thông tin thị trường và thông tin đưa vào sản xuất.

Nhấn mạnh về thị trường, ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An chia sẻ, thị trường luôn quyết định tiêu thụ và sản xuất.

Tiêu thụ gạo cũng phụ thuộc vào khẩu vị và nguồn cung của thị trường nên sẽ có lúc tăng giá hay giảm giá. Riêng việc giảm giá thu mua lúa trong thời gian qua đều do biến động thị trường xuất khẩu.

Tuy nhiên, dù giá lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long giảm, nhưng nông dân vẫn có lời. Bởi giá thành sản xuất 1 kg lúa ước khoảng 3.400-4.000 đồng, giá bán ra 6.000 đồng/kg đã đảm bảo cho nông dân lợi nhuận tái sản xuất. Nhưng về phía doanh nghiệp, thu mua từ 6.000-8.000 đồng/kg, cộng chi phí chế biến và logistics, phải bán ra 500 USD/tấn mới có lợi nhuận.

Nhưng giá gạo xuất khẩu hiện nay chỉ từ 380-420 USD/tấn, doanh nghiệp phải chịu lỗ. Do đó, doanh nghiệp đang cần một sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân, lẫn ngân hàng và các chính sách của Chính phủ liên quan việc nới rộng hạn ngạch cho vay vốn thu mua lúa, chờ được giá mới xuất khẩu.

Dùng "giảm" để "tăng"

Cho đến thời điểm này, câu chuyện sản xuất và tiêu thụ lúa gạo luôn song hành giữa an ninh lương thực và an toàn môi trường.

Người tiêu dùng ngày càng chú trọng đến sự an toàn của hệ sinh thái, nên ngành hàng lúa gạo Việt Nam cũng phải tuân theo luật chơi chung, hài hòa với thiên nhiên.

Kể từ vụ lúa Hè Thu năm 2024, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thí điểm 7 mô hình theo đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp" (tên đầy đủ Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030) nhằm hướng đến sản xuất Net Zero như đã cam kết với Liên hợp quốc tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

ttxvn-dot-rom-ra.jpg
Để phát triển kinh tế tuần hoàn hiệu quả, nông dân cần phải bỏ tập quán đốt rơm rạ trên đồng. (Ảnh: Thu Hiền/TTXVN)

Qua những ngày khảo sát hàng loạt các mô hình sản xuất của nông dân, phóng viên nhìn thấy được nét hân hoan của các nông dân.

Ông Nguyễn Ngọc Huấn, Giám đốc Hợp tác xã Khiết Tâm, Cần Thơ, cho biết Hợp tác xã Khiết Tâm tiên phong trong sản xuất lúa giảm phát thải theo đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp" từ Hè Thu 2024, với diện tích 30ha. Các thành viên sẵn sàng áp dụng các giải pháp giảm lượng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới,…

Cụ thể, khi tham gia mô hình này, lượng giống gieo sạ của thành viên đã giảm từ 150-180 kg/ha xuống còn 80 kg/ha, giảm từ 10-15% lượng phân bón hóa học và khoảng 20% lượng thuốc bảo vệ thực vật.

Đặc biệt, quy trình góp phần thay đổi nhận thức của bà con nông dân trong việc xử lý rơm rạ sau thu hoạch. Thay vì đốt rơm trên ruộng, bà con cuộn rơm đưa ra khỏi đồng, bán với giá 400.000 đồng/ha, vừa giúp cây lúa giảm ngộ độc hữu cơ, vừa tăng thêm thu nhập hoặc tái sử dụng rơm để ủ làm phân bón, trồng nấm.

Từ đó, việc canh tác theo quy trình giảm phát thải giúp xã viên Hợp tác xã Khiết Tâm tăng lợi nhuận từ 15-20% so với canh tác truyền thống.

ttxvn-1-trieu-ha-lua-kien-giang.jpg
Mô hình thí điểm “Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL" tại HTX dịch vụ nông nghiệp Tân Thuận (Hòn Đất, Kiên Giang) ước đạt hơn 9 tấn/ha. (Ảnh: Văn Sỹ/TTXVN)

Tính đến nay, các địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã mạnh dạn tham gia vào đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp" an toàn cho người sản xuất, giảm phát thải khí nhà kính và môi trường; trong đó, thành phố Cần Thơ 50.000ha, Kiên Giang 100.000ha, An Giang hơn 8.500/20.000ha tham gia đề án, Trà Vinh gần 9.000ha, Sóc Trăng hơn 33.000ha.

Ông Nguyễn Phú Cường, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Vọng Đông, chia sẻ với lối canh tác lúa truyền thống trong hơn 30 năm qua, đất ruộng đã trở nên suy thoái nghiêm trọng, làm cho năng suất lúa giảm dần.

Hơn 10 năm trước, Hợp tác xã Vọng Đông đã có thể thu hoạch 13-15 tấn/ha vụ Đông Xuân, nhưng sau đó giảm dần dù có tăng lượng giống, phân bón. Nhưng hiện nay, bằng cách thức sản xuất "1 phải, 5 giảm" của đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp," nông dân lấy lại năng suất như mong muốn 10 tấn/ha.

Không những vậy, chi phí sản xuất cũng giảm rất nhiều so với trước đây, như từ 120-150 kg giống/ha giảm còn 70-80 kg giống/ha, lượng phân hóa học giảm gần 50%, thuốc bảo vệ thực vật cũng giảm gần 50%, lượng nước tưới ướt khô xen kẽ cũng giảm một nửa. Do đó, lợi nhuận của nông dân tăng lên, trong trường hợp giá lúa giảm như hiện nay thì cũng vẫn có lời ít, chứ không lỗ.

Chung tay vì môi trường sống

Trước sự hưởng ứng của nông dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tham gia vào đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp," cho thấy hiện nay ý thức của nông dân đã có sự thay đổi lớn.

Trước nhất, đây là sự thay đổi mang lại lợi nhuận cao hơn khi ra cạnh tranh với ngành hàng lúa gạo thế giới, tiếp theo là sự thay đổi để bảo vệ môi trường sống của người sản xuất nói riêng, môi trường nói chung.

Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ, ngành lúa gạo Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm. Dù qua nhiều khó khăn nhưng cũng đã có những thay đổi rõ rệt, năng suất 3 vụ đạt 19 tấn/năm.

ttxvn-co-gioi-hoa-2.jpg
Nông dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang làm đất chuẩn bị giao sạ. (Ảnh: Công Mạo/TTXVN)

Việt Nam cũng đã có nhiều giống lúa cung ứng cho nhiều phân khúc thị trường. Trình độ sản xuất của nông dân được nâng lên, cơ giới hóa đồng bộ. Cộng đồng doanh nghiệp cũng đã tham gia tích cực vào chuỗi ngành hàng lúa gạo, tạo nên động lực lớn để lúa gạo Việt Nam phát triển.

Có thể nói, đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp" đã tạo nên sự thay đổi lớn cho ngành hàng lúa gạo Cần Thơ. Khi thu hoạch vụ lúa đầu tiên của đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp," thành phố Cần Thơ cũng đã khen thưởng 38 hộ dân trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh tham gia quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải khí nhà kính với tổng số tiền thưởng trên 20 triệu đồng. Đây chính là sự khích lệ cho người dân cùng chung tay thay đổi phương thức sản xuất vì môi trường sống.

Tại An Giang, Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, chia sẻ ngành nông nghiệp An Giang tiếp tục tập trung tổ chức lại sản xuất, đặc biệt đẩy mạnh triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.

Cụ thể, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất lúa thông qua xây dựng mô hình trình canh tác bền vững tập trung vào nhóm lúa chất lượng cao với quy mô diện tích lớn, cơ giới hoá đồng bộ giúp cải thiện chất lượng và giảm chi phí sản xuất, tăng cạnh tranh. Đồng thời, áp dụng mô hình sản xuất lúa "3 giảm 3 tăng," "1 phải 5 giảm," SRP, VietGAP và đặc biệt thực hiện sản xuất lúa theo quyết định 145/QĐ-TT-CLT, ngày 27/03/2024 của Cục Trồng trọt về "Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long" nhằm hạn chế chi phí, nâng cao chất lượng và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh.

Ngành nông nghiệp An Giang cũng nâng cao năng lực cho các tổ hợp tác, hợp tác xã về ứng dụng công nghệ trong việc số hoá, truy xuất nguồn gốc, dữ liệu hoá vùng trồng, dự tính dự báo các thông tin thị trường để kịp thời lên kế hoạch sản xuất.

Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang, chia sẻ để có thể phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo của Kiên Giang trong tương lai, trước hết tỉnh đẩy mạnh triển khai đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, với 3 hợp phần gồm hỗ trợ hạ tầng sản xuất, kỹ thuật và quản lý dự án.

ttxvn-giong-lua-2.jpg
Hướng dẫn nông dân tham quan, xem xét, đánh giá thực tế các bộ giống khảo nghiệm. (Ảnh: Minh Trí/TTXVN)

Tỉnh Kiên Giang cũng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tính toán lại mùa vụ sản xuất các vụ lúa trong năm hợp lý hơn theo hướng dịch chuyển thời gian của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long để hạn chế tình trạng trùng đồng trong giai đoạn thu hoạch lúa, giảm áp lực tiêu thụ của các doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp nên tính toán, bố trí xây dựng cơ sở sơ chế, chế biến lúa gạo tại các vùng nguyên liệu để giảm chi phí logistics và tăng hiệu quả liên kết tiêu thụ.

Bên cạnh đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang làm cầu nối để doanh nghiệp đặt hàng với tổ chức nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn của thị trường tiêu thụ, với sản lượng cụ thể theo từng mùa vụ sản xuất.

Doanh nghiệp cần minh bạch trong chia sẻ lợi nhuận với người trồng lúa cũng như chia sẻ những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh và biến động về giá của thị trường. Đồng thời, chuyển giao các quy trình canh tác tiên tiến, giảm chi phí đầu vào, sản xuất thân thiện với môi trường, nâng cao giá trị, đẩy mạnh xây dựng thương hiệu lúa gạo của tỉnh Kiên Giang.

Nâng cao năng lực của nông dân

Sản xuất lúa gạo vốn là kỹ năng ngấm vào người từ lâu đời của nông dân Việt Nam. Thế nhưng, khoa học kỹ thuật dần phát triển, làm đòn bẩy cho con người và xã hội ngày càng tiến bộ hơn, nên nông dân Việt Nam cũng tiếp bước học hỏi để trở thành người nông dân tri thức, vận dụng tốt các điều kiện khoa học, nâng cao năng lực sản xuất thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm như thời gian qua.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan từng nhận định giá trị của một nông sản cụ thể là tầng thấp nhất trong chuỗi giá trị, đời sống bà con nông dân được nâng cao mới là nền tảng phát triển của ngành nông nghiệp. Khi đó, người nông dân sẽ là chỗ dựa vững chắc của toàn ngành nông nghiệp.

Ngay từ lúc bắt đầu vị trí đứng đầu ngành nông nghiệp Việt Nam, nhiệm kỳ 2020-2025, ông Lê Minh Hoan đã có mong muốn sẽ thay đổi nông dân Việt Nam nói chung, nông dân ngành hàng lúa gạo nói riêng để bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.

ttxvn-gieo-sa.jpg
Nông dân sử dụng thiết bị bay gieo sạ lúa trên đồng đất huyện Tân Hiệp (Kiên Giang). (Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN)

Có thể nói, trong mấy mươi năm qua, nông dân sản xuất lúa gạo cũng đã có nhiều thay đổi, từ cày bừa, cấy lúa, thu hoạch thủ công, đã dần áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất lẫn thu hoạch.

Cho đến nay, đã có nhiều hợp tác xã sẵn sàng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất lúa gạo, nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành hàng lúa gạo Việt Nam.

Theo ông Lâm Phương Tùng, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Phước An, Sóc Trăng, Hợp tác xã Phước An đã tăng cường khuyến khích nông dân đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất để giảm giá thành, cải thiện lợi nhuận.

Thành viên được tập huấn các kỹ thuật mới, sử dụng cơ giới hóa trong khâu làm đất, sử dụng thiết bị gieo sạ cụm, sử dụng thiết bị bay để phun xịt thuốc, phân, giúp giảm 2-3 lần phun/vụ, lắp đặt hệ thống giám sát sâu rầy thông qua bẫy đèn điện tử.

Việc sử dụng hệ thống giám sát sâu rầy bằng bẫy đèn điện tử không chỉ mang lại hiệu quả cao trong công tác quản lý dịch hại, theo dõi tình hình rầy nâu di trú để dự báo thời gian rầy di trú cao điểm làm cơ sở khuyến cáo lịch xuống giống né rầy, giúp quản lý bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hiệu quả.

Mới đây, Hợp tác xã đã triển khai việc quét mã QR trên diện tích cánh đồng thông minh để thuận tiện trong quản lý, giúp thương lái cũng như người dân có thể chủ động nắm được thông tin về diện tích, giống lúa, lượng phân bón... Qua đó, từng bước ứng dụng công nghệ trong ghi chép nhật ký đồng ruộng.

Để có thể trở thành nông dân tri thức, phải có sự đồng hành, chung tay của các doanh nghiệp trong ngành hàng lúa gạo.

Ông Lê Quốc Phong, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền, chia sẻ thời gian qua phân bón Bình Điền đã đồng hành cùng nông dân cải tiến kỹ thuật sản xuất lúa gạo, như cung cấp các giải pháp kỹ thuật "cứng" bắt buộc như: giảm giống, giảm phân đạm và bón phân cân đối hợp lý, quản lý dịch hại theo IPM (40 ngày sau sạ không được phun thuốc trừ sâu rầy, quản lý nước theo ướt khô xen kẽ để phù hợp và hiệu quả hơn với từng vùng sinh thái, từng mùa vụ).

Đồng thời, Bình Điền cũng đã tập huấn lý thuyết với hướng dẫn kỹ thuật canh tác trên đồng ruộng để nông dân dễ tiếp cận hơn; hướng dẫn nông dân tự đo đếm các chỉ tiêu đồng ruộng và báo cáo kết quả mô hình vào cuối vụ, hướng dẫn nông dân ghi chép nhật ký đồng ruộng, tổ chức hội thi cuối vụ để đánh giá kiến thức đã chuyển giao; tổ chức tham quan học tập trong và ngoài nước cho nông dân và cán bộ kỹ thuật để cập nhật mô hình canh tác hiệu quả.

ttxvn-gieo-sa-2.jpg
Cơ giới hóa trong sản xuất lúa ở huyện Tân Hiệp (Kiên Giang). (Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN)

Cho đến nay, các hợp tác xã, nông dân trong chuỗi liên kết với Bình Điền đã tự ứng dụng máy sạ hàng, máy sạ cụm để giảm giống, cung cấp giống lúa cấp xác nhận cho nông dân, đầu tư lắp đặt trạm quan trắc nước mặn tự động, trạm giám sát sâu rầy tự động, bút đo độ mặn, bút và dụng cụ đo pH ruộng lúa, trạm kiểm soát ngập khô xen kẽ tự động, trạm bơm nước thông minh… Đây là sự chuyển biến lớn của nông dân trong quá trình nâng cấp trình độ sản xuất của bản thân.

Đi cùng nhau để bền vững

Bài toán để ngành hàng lúa gạo Việt Nam bền vững vẫn luôn được Chính phủ quan tâm trong nhiều năm qua. Với vai trò là ngành hàng chủ chốt, liên quan đến an ninh lương thực trong nước và đóng góp một phần vào an ninh lương thực thế giới, người sản xuất lúa gạo trở thành đối tượng cần được quan tâm nhiều nhất để duy trì ngành hàng bền vững.

Trải qua nhiều biến động thăng trầm, mỗi lần thị trường thế giới biến động lại tác động mạnh đến lúa gạo. Kể từ khi Nghị định 109/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, ra đời từ 15 năm trước, đến Nghị định 107/2018/NĐ-CP, thay thế Nghị định 109/2010/NĐ-CP, và hiện nay là Nghị định 01/2025/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo đều vì một mục tiêu phát triển ngành hàng lúa gạo bền vững, trong đó vai trò nông dân vẫn luôn giữ vững, vẫn chú trọng đảm bảo lợi nhuận để duy trì sản xuất và sinh sống.

Dù biến động ngắn hạn hay dài hạn, nông dân và doanh nghiệp ngành hàng lúa gạo vẫn phải luôn sát cánh bên nhau mới có thể duy trì sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.

Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An nhấn mạnh, nông dân muốn trụ vững thì doanh nghiệp cũng phải trụ được, đây là mối liên kết không thể tách rời, trong đó phải kể đến vai trò các đơn vị thu mua lúa (hàng xáo, thương lái) khi vào vụ thu hoạch rộ. Chính vì vậy, lời giải cho cả bài toán này là làm sao để 2 lực lượng này cùng phát triển.

Cho đến thời điểm này, Chính phủ phê duyệt đề án "1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp" là một giải pháp đúng đắn xuyên suốt cho ngành hàng lúa gạo Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.

Đề án này đã triệt tiêu gần hết những tiêu cực tồn tại mười mấy năm qua của ngành hàng lúa gạo. Với đề án này, Ngân hàng Nhà nước cũng đã vào cuộc đồng hành cùng chuỗi lúa gạo, giúp giải quyết được khó khăn trước mắt về thu mua lúa gạo.

Việc còn lại chờ quyết định nới rộng hạn ngạch cho doanh nghiệp vay vốn để thu mua lúa trong dân vào vụ thu hoạch rộ, chờ giá lên để bán ra, mới đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp xoay vòng vốn.

Ngành hàng lúa gạo vốn là ngành hàng chủ chốt của ngành nông nghiệp, liên quan đến an ninh lương thực. Vì vậy, trong chuỗi biến động này, Chính phủ cũng đã vào cuộc để giải quyết cái khó trước mắt, cũng như giải pháp lâu dài để nông dân yên tâm sản xuất.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã ký công điện gửi các Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Công Thương, Ngoại giao, Tài chính; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam; Chủ tịch Hiệp hội ngành hàng Lúa gạo Việt Nam; Chủ tịch, Tổng giám đốc Tổng Công ty Lương thực miền Bắc, Tổng Công ty Lương thực miền Nam, với yêu cầu cụ thể như: Ngân hàng Nhà nước mở rộng hạn ngạch, thời hạn cho vay đối với các doanh nghiệp có năng lực, có hệ thống kho chứa để mua gạo tạm trữ trong giai đoạn thị trường có biến động và giá mua thấp, các ngân hàng thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi, đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng phục vụ thu mua và xuất khẩu lúa gạo, nhất là thu mua lúa hàng hóa vụ Đông Xuân tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long; hỗ trợ nông dân tái vụ; đơn giản hóa thủ tục xét duyệt cấp tín dụng, bao gồm các điều kiện về hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng thu mua lúa, tài sản bảo đảm...

Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn tất các thủ tục hoàn thuế, tăng cường kiểm tra hoạt động xuất khẩu gạo tạo sự minh bạch và công bằng cho thị trường.

ttxvn-xuat-khau-gao.jpg
Gạo là sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường Indonesia. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Bộ Công Thương phối hợp Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Ủy ban Nhân dân tỉnh các địa phương thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra việc thực hiện việc thu mua, xuất nhập khẩu lúa gạo góp phần làm lành mạnh thị trường, đặc biệt là khả năng dự trữ bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP; tăng cường xúc tiến thương mại, thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường lớn, thị trường tiềm năng, còn nhiều dư địa với các phân khúc sản phẩm của Việt Nam, như Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc.

Công điện của Thủ tướng cũng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đẩy mạnh nhân rộng quy trình sản xuất lúa giảm phát thải để giảm chi phí sản xuất và tăng giá bán cho nông dân, nghiên cứu giống lúa có chất lượng và giá trị cao, các giống lúa đặc sản; ứng dụng công nghệ hiện đại, đầu tư nghiên cứu và nhân giống, phát triển các giống lúa có khả năng chịu hạn, chịu mặn, kháng sâu bệnh nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai.

Với sự chung tay của toàn hệ thống chính trị này, người sản xuất lúa nói riêng, ngành hàng lúa gạo nói chung có thêm nhiều cơ hội để vươn mình trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên sản xuất và tiêu thụ vì môi trường sống của con người./.

(TTXVN/Vietnam+)

Bình luận

Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Tin cùng chuyên mục

Công nghiệp bán dẫn. (Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN)

Trung Quốc vẫn là "quán quân" đầu tư sản xuất chip

Hiệp hội bán dẫn toàn cầu (SEMI) cho hay Trung Quốc sẽ tiếp tục dẫn đầu thế giới về đầu tư vào thiết bị sản xuất chip máy tính mới trong năm 2025, mặc dù có sự sụt giảm đáng kể so với năm trước.