Hiệu quả từ dự án phục hồi rừng bền vững tại Phú Thọ

Sau 3 năm triển khai dự án "Trình diễn năng lực phục hồi rừng bền vững ở Việt Nam" tại Phú Thọ, dự án đã đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Sau 3 năm triển khai dự án "Trình diễn năng lực phục hồi rừng bền vững ở Việt Nam" tại Phú Thọ, dự án đã đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Theo đó, dự án không chỉ đạt hiệu quả về công tác phục hồi rừng nghèo kiệt ở các cộng đồng, nâng cao sự tham gia của cộng đồng địa phương trong quản lý rừng mà còn góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng giá trị môi trường sinh thái và cải thiện sinh kế của người trồng rừng nơi đây.

Dự án có tổng kinh phí hơn 586.000 USD, trong đó Mạng lưới châu Á-Thái Bình Dương về phục hồi rừng và quản lý rừng bền vững (APFNet) tài trợ 499.750 USD.

Dự án được triển khai thực hiện từ tháng 9/2010 ở 2 huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ là Thanh Sơn và Tân Sơn với mô hình trình diễn phục hồi rừng nghèo kiệt ở cộng đồng.

Thông qua dự án, tỉnh Phú Thọ đã xây dựng thành công 100ha mô hình phục hồi rừng thứ sinh nghèo kiệt bằng trồng bổ sung cây gỗ bản địa và trồng cây lâm sản ngoài gỗ.

Trong đó đã xây dựng được 50ha mô hình thí điểm trồng các loại cây lâm sản ngoài gỗ như ba kích, hương bài, kim tiền thảo, rau bò khai...; phục hồi 50ha rừng nhờ chặt cải thiện, làm giàu rừng bằng việc bổ sung cây bản địa quý hiếm, nằm trong sách đỏ có giá trị cao như chò chỉ, chò nâu, lim xanh, dổi xanh, mỡ...

Công tác trồng và phục hồi rừng đã nâng cao độ che phủ, tăng giá trị của rừng và tạo được thu nhập cả trong ngắn hạn và dài hạn cho người dân địa phương.

Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Phú Thọ cho biết dự án đã góp phần làm tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Ước tính giá trị sản xuất lâm nghiệp hàng năm đạt khoảng 350 tỷ đồng, chiếm 12% giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản của tỉnh Phú Thọ.

Bên cạnh đó, dự án còn tạo thêm việc làm cho gần 23.000 hộ dân ở các địa phương, từ đó đã dần hình thành vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến, năng suất, chất lượng và độ che phủ của rừng không ngừng nâng lên từ 35,9% năm 2000 lên 50% năm 2012, góp phần không nhỏ vào việc phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, điều tiết nguồn nước, đời sống người trồng rừng ngày càng cải thiện, thêm gắn bó với rừng./.

(TTXVN)

Tin cùng chuyên mục