Hiệp định về Biển cả là dấu mốc phát triển mới của luật pháp quốc tế

Đại sứ Đặng Hoàng Giang đã có chia sẻ về ý nghĩa của việc thông qua Hiệp định về Biển cả, quan điểm của Việt Nam về việc thông qua văn kiện và những công việc sắp tới.
Đoàn Liên ngành Việt Nam tại Hội nghị Liên chính phủ của Liên hợp quốc diễn ra từ 19-20/6 tại New York (Mỹ). (Ảnh: TTXVN phát)

Từ ngày 19-20/6 tại New York (Mỹ), Hội nghị Liên chính phủ của Liên hợp quốc đã chính thức thông qua Hiệp định về Bảo tồn và Sử dụng bền vững Đa dạng Sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia- còn gọi là Hiệp định về Biển cả, đánh dấu sự ra đời của văn kiện thứ ba thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Nhân dịp này, phóng viên TTXVN tại New York đã có cuộc trao đổi với Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, về ý nghĩa của sự kiện, quan điểm của Việt Nam về việc thông qua văn kiện và những công việc sắp tới.

Theo Đại sứ Đặng Hoàng Giang, báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp quốc tại Hội nghị Quốc gia thành viên Công ước Luật biển vừa qua kêu gọi “những nỗ lực khẩn cấp” để đối phó với tình trạng “sức khỏe của đại dương bị đe dọa nghiêm trọng.”

Biển cả, nơi không thuộc về quyền tài phán của quốc gia nào, nơi có những loài sinh vật đặc biệt chỉ sống ở vùng sâu hoặc xa bờ, có giá trị to lớn về đa dạng sinh học và cả về kinh tế, cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng.

[Thông qua Hiệp định về Biển cả nhằm bảo vệ các vùng biển quốc tế]

UNCLOS có quy định về tự do đánh cá và tự do nghiên cứu khoa học biển tại biển cả, song chưa có quy định điều chỉnh về phân chia nguồn lợi là nguồn gene thu thập từ biển cả, chưa có cơ chế điều phối, kiểm soát các hoạt động trên biển cả nhằm bảo vệ nguồn gene này khỏi bị suy giảm, cạn kiệt.

Hiện nay, hầu như chỉ có các nước phát triển và các công ty tư nhân sở hữu công nghệ biển và công nghệ sinh học hàng đầu với nguồn tài chính dồi dào mới có khả năng thu thập nguồn gene biển và phát triển ứng dụng đem lại lợi nhuận.

Hiệp định về Biển cả cụ thể hóa và phát triển Công ước Luật Biển trên khía cạnh này. Đây là hiệp định thứ ba thực thi UNCLOS (sau Hiệp định về đàn cá di cư và Hiệp định nhằm thực thi Phần XI của Công ước).

Hiệp định này sẽ củng cố hơn nữa Công ước Luật Biển - bản Hiến pháp về đại dương, khuôn khổ pháp lý toàn diện cho mọi hoạt động trên biển.

Hiệp định góp phần củng cố chủ nghĩa đa phương, là một dấu mốc mới trong sự phát triển của luật pháp quốc tế và góp phần thực hiện thập kỷ Liên hợp quốc về khoa học biển phục vụ phát triển bền vững và thực hiện Mục tiêu Phát triển thứ 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn tài nguyên biển phục vụ phát triển bền vững.

Phát biểu tại phiên họp thông qua, đại đa số các nước ủng hộ mạnh mẽ việc thông qua Hiệp định về Biển cả, cũng như bày tỏ hy vọng và cam kết thúc đẩy văn kiện sớm được đông đảo các quốc gia ký, phê chuẩn để sớm có hiệu lực và đi vào thực hiện.

Việc thông qua hiệp định đem lại nhiều cảm xúc, đặc biệt đối với những người trực tiếp tham gia thương lượng, trong đó có đoàn liên ngành Việt Nam do Bộ Ngoại giao chủ trì, cùng đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… phối hợp với Phái đoàn Việt Nam tại New York, bởi đây là kết quả của một quá trình lâu dài và phức tạp.

Như bà Reena Lee, Chủ tịch Hội nghị Liên chính phủ mô tả việc xây dựng Hiệp định là “một công cuộc to lớn và có ý nghĩa sống còn.” Nếu tính cả các hoạt động trù bị cho Hội nghị Liên chính phủ và hoạt động vận động trong Đại hội đồng Liên hợp quốc, quá trình này kéo dài gần 20 năm.

Về nội dung chính của hiệp định, Đại sứ Đặng Hoàng Giang nêu rõ trên cơ sở nguyên tắc “nguồn gene biển là di sản chung của nhân loại,” Hiệp định về Biển cả thiết lập khuôn khổ, phương thức chia sẻ lợi ích giúp cho các nước đang phát triển được chia sẻ công bằng lợi ích từ nguồn gene biển, bao gồm cả chuỗi thông tin số hóa nguồn gene biển (DSI).

“Chia sẻ lợi ích” không chỉ đề cập đến lợi ích tài chính, mà còn mở ra cho các nước đang phát triển thêm cơ hội tham gia nghiên cứu khoa học biển, nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ.

Hiệp định về Biển cả quy định về biện pháp phân vùng bảo tồn biển (ABMT), nhằm cân bằng giữa bảo tồn và sử dụng bền vững những khu vực cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, các quy định về đánh giá tác động môi trường cũng được kỳ vọng sẽ góp phần cân bằng giữa nhu cầu phòng ngừa tác hại do các hoạt động trên biển cả gây ra đối với đa dạng sinh học biển với nhu cầu khuyến khích nghiên cứu khoa học biển.

Hiệp định cũng thành lập và vận hành các cơ quan, thể chế để thực hiện văn kiện, giải quyết tranh chấp, cơ chế tài chính.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang cho biết Việt Nam mong muốn “trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an toàn… tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương” (theo Chiến lược Phát triển Bền vững Kinh tế Biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045).

Việt Nam cũng có nhu cầu tận dụng các biện pháp xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ, cũng như nguồn lực tài chính của quỹ chia sẻ lợi ích từ nguồn gene biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia để “tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến,” “đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao,” từ đó “phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học,” như các mục tiêu mà Chiến lược Phát triển Bền vững Kinh tế Biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra.

Với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước về biển cũng như về hội nhập quốc tế, với phương châm “chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng,” “là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,” một ngày không xa, Việt Nam sẽ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động trên vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, trong khu vực Đông Nam Á, cũng như những khu vực khác trên thế giới.

Sau khi Hiệp định về Biển cả được thông qua, Đại sứ Đặng Hoàng Giang cho hay Hiệp định sẽ mở ký trong vòng 2 năm tính từ ngày 20/9/2023 tại trụ sở Liên hợp quốc, New York (Mỹ).

Toàn cảnh Hội nghị Liên hợp quốc thông qua Hiệp định về Biển cả, văn kiện thứ ba thực thi UNCLOS 1982. (Ảnh: Thanh Tuấn/TTXVN)

Hết thời hạn này, quốc gia có thể trở thành thành viên thông qua thủ tục gia nhập. Hiệp định sẽ có hiệu lực 120 ngày sau khi có 60 nước gia nhập, phê chuẩn, phê duyệt hoặc chấp thuận.

Trong vòng 1 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực, Tổng Thư ký Liên hợp quốc sẽ triệu tập cuộc họp đầu tiên của hội nghị các nước thành viên của văn kiện này.

Cuộc họp đầu tiên của hội nghị các nước thành viên sẽ thảo luận và quyết định rất nhiều công việc quan trọng, trong đó bao gồm thông qua các quy tắc về thủ tục vận hành của chính hội nghị thành viên, cũng như các cơ quan khác được thành lập theo hiệp định, quyết định tỷ lệ đóng góp thường niên của các nước phát triển cho quỹ đặc biệt được thành lập theo hiệp định, dàn xếp liên quan đến tài trợ…

Để chuẩn bị cho cuộc họp đầu tiên này, Đại hội đồng Liên hợp quốc có thể sẽ phải sớm thông qua một nghị quyết thành lập Ban thư ký lâm thời của hiệp định và thu xếp các công việc chuẩn bị cho hội nghị thành viên, thậm chí trước khi hiệp định có hiệu lực.

Các nước thành viên Liên hợp quốc tham gia Hội nghị Liên chính phủ sẽ phải theo sát quá trình này.

Theo Đại sứ, để theo sát tiến trình, đóng góp vào thực thi đầy đủ và hiệu quả hiệp định, điều kiện tiên quyết đối với mỗi quốc gia là phải sớm trở thành thành viên hiệp định.

Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về Đẩy mạnh và tăng cường đối ngoại đa phương đến năm 2030 nhấn mạnh yêu cầu “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế-chính trị quốc tế minh bạch, công bằng, dân chủ, bền vững; đồng thời, khai thác, phát huy tối đa lợi ích mà hợp tác đa phương mang lại.”

Trước yêu cầu đó, đối với đại diện Bộ Ngoại giao, cơ quan chủ trì tham gia Hiệp định cũng như Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc và các Bộ, ngành phối hợp, việc thông qua Hiệp định mới chỉ là “kết thúc của giai đoạn bắt đầu” và sẽ còn nhiều công việc phía trước./.

Hiệp định về Biển cả gồm 17 chương, 76 điều, 2 phụ lục với nội dung chính xoay quanh một số vấn đề gồm:
Chia sẻ lợi ích nguồn gene biển; Thiết lập vùng bảo tồn biển; Đánh giá tác động môi trường; Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ và các vấn đề chung như: Cơ chế ra quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên; thành lập, vận hành các cơ quan; thể chế để thực hiện văn kiện; giải quyết tranh chấp; cơ chế tài chính..

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục