Nhìn lại giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt bình quân khoảng 10%/năm. Quy mô tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tăng gấp 2,5 lần, từ 89.462 tỷ đồng năm 2010 lên 225.377 tỷ đồng tại thời điểm 30/11, với gần 6,5 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách...
Cầu nối hội tụ trí lực giảm nghèo bền vững
Chỉ trong vòng 10 năm, Chính phủ đã hai lần nâng chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, cùng với đó là số hộ nghèo, cận nghèo tăng lên theo chuẩn mới mang đến áp lực lớn cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong vấn đề cung ứng tín dụng.
Điểm thuận lợi lớn nhất trong giai đoạn này là Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn cho công tác giảm nghèo, quyết liệt chỉ đạo trong việc tập trung nguồn lực lớn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội. Minh chứng là năm 2017 - năm đầu tiên Ngân hàng Chính sách xã hội được bố trí nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020, tạo tiền đề cho Ngân hàng Chính sách xã hội tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững cũng như nâng cao năng lực tài chính.
[Gần 1.200 lao động bị ngừng việc được hỗ trợ từ gói 16.000 tỷ đồng]
Nhìn lại cả giai đoạn 2011-2020, ngân sách Nhà nước đã cấp 41.204,5 tỷ đồng, trong đó cấp bổ sung 8.270,5 tỷ đồng vốn điều lệ, 12.412 tỷ đồng để thực hiện tín các chương trình tín dụng chính sách...
Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW đi vào đời sống đã đưa nguồn vốn nhận ủy thác địa phương trở thành điểm nổi bật trong việc tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội tại địa phương kể từ khi thực hiện Chiến lược phát triển.
Đến 30/11, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 20.132 tỷ đồng (trong đó, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách cấp huyện là 3.288 tỷ đồng), tăng 17.846 tỷ đồng, tăng gấp 8,8 lần so với năm 2010. Bên cạnh đó, hệ thống các tổ chức tín dụng Nhà nước tiếp tục duy trì 2% số dư tiền gửi tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đưa nguồn vốn này tăng 6,4 lần so với trước thời điểm thực hiện Chiến lược, từ 12.821 tỷ đồng năm 2010 lên 81.462 tỷ đồng.
Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, duy trì nhận tiền gửi tiết kiệm từ người nghèo qua tổ tiết kiệm và vay vốn, Ngân hàng Chính sách xã hội đã tập trung khai thác các nguồn vốn thị trường, đặc biệt là cho ra đời sản phẩm huy động tiền gửi dân cư tại các điểm giao dịch xã.
Phương thức ủy thác cho vay qua các tổ chức chính trị-xã hội tiếp tục triển khai có hiệu quả hơn từ năm 2014 với việc Ngân hàng Chính sách xã hội cùng các tổ chức này ký kết lại đã gắn kết chặt chẽ 4 nhà là: “Ngân hàng; chính quyền; tổ chức chính trị-xã hội; tổ tiết kiệm và vay vốn” chung tay giúp người nghèo và đối tượng chính sách khác. Đến 30/11, các tổ chức chính trị-xã hội nhận ủy thác đang phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội tham gia quản lý 224.344 tỷ đồng, chiếm 99,5%/tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội.
Đặc biệt việc thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tổ tiết kiệm và vay vốn được ví như “cánh tay nối dài” của Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách, đã góp phần chuyển tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến các đối tượng thụ hưởng kịp thời, tiết giảm chi phí, thời gian cho người vay và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính sách xã hội đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Cùng với gần 173.000 tổ tiết kiệm và vay vốn, 10.426 điểm giao dịch xã hoạt động định kỳ phủ rộng trên hầu hết các thôn, xã, phường, thị trấn trong toàn quốc đặc biệt vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn đã giúp Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện hiệu quả phương châm “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ,” “Giao dịch tại nhà, giải ngân tại xã.”
Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo và hội nhập
Cũng chính từ sự “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ,” câu chuyện thực hiện chiến lược của Ngân hàng Chính sách xã hội không chỉ là những kế hoạch cứng mà được xây dựng chủ động và linh hoạt theo diễn tiến của nền kinh tế, yêu cầu giảm nghèo của quốc gia, đặc biệt là từ nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Kết quả là từ năm 2011 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng mới để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển kinh tế.
Từ những chính sách bổ trợ vào hệ thống chương trình giảm nghèo chung như: Cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, cho vay giải quyết việc làm cho đến các chính sách riêng cho từng đối tượng yếu thế, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long...
Đặc biệt là các chương trình tín dụng cho vay để ứng phó với biển đổi khí hậu, giảm nghèo bền vững như cho vay đối với người dân chịu ảnh hưởng sự cố môi trường biển...
Đặc biệt từ năm 2018 đến nay Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện giải pháp tăng cường cán bộ có kinh nghiệm năng lực từ Hội sở chính và các chi nhánh tham gia củng cố chất lượng cho các chi nhánh có chất lượng hoạt động yếu đã góp phần đưa tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống luôn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển là dưới 3%/tổng dư nợ. Tại thời điểm 30/11/2020, nợ quá hạn và nợ khoanh chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%/tổng dư nợ, thấp hơn so với mục tiêu của Chiến lược phát triển đề ra.
Kết quả của tất cả những chuyển biến ấy đã khắc sâu vào bức tranh tín dụng chính sách với những gam màu ấm áp. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tiếp tục được đầu tư đến 100% xã phường, thị trấn trên cả nước với trên 21,5 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn, với doanh số cho vay lên tới 504.565 tỷ đồng. Tín dụng chính sách xã hội góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011-2020 từ 14,2% xuống 4,25%; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều đã giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), dự kiến xuống dưới 3% (năm 2020).
Hiệu ứng từ nguồn vốn tín dụng chính sách trong thời gian tới sẽ còn mạnh mẽ hơn cùng với những trợ lực từ Nhà nước cũng như toàn thể hệ thống chính trị-xã hội. Tuy nhiên, những thách thức mới đang cũng đang đặt ra cho Ngân hàng Chính sách xã hội khi tới đây chuẩn nghèo mới sẽ được ban hành cùng với đó công cuộc hội nhập ngày càng sâu cùng những rủi ro khó lường đoán đang tăng lên.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu cấp thiết xây dựng một chiến lược mới cho Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2021-2030. Trong đó yêu cầu nâng cao năng lực tài chính là một yếu tố có tính tiên quyết để Ngân hàng Chính sách xã hội có thể làm tốt hơn nữa trọng trách mà Đảng và Nhà nước giao phó trong bối cảnh mới./.