Hạn chế từ hạ tầng cơ sở - điểm nghẽn phát triển thị trường khí

Theo đại diện Bộ Công Thương, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khí trong nước, cơ sở hạ tầng tồn trữ của các kho chứa khí phải đạt quy mô từ 3,5-4 triệu tấn/năm vào năm 2025.
Vận hành hệ thống phân phối khí tại Công ty Khí Cà Mau (thuộc PV GAS). (Ảnh: Huy Hùng/TTXVN)

Việt Nam đã phát triển hệ thống kho chứa cùng đường ống vận chuyển khí thiên nhiên, đảm bảo cung cấp cho nhu cầu sử dụng của người dân, doanh nghiệp.

Tuy nhiên, đánh giá tại "Diễn đàn phát triển thị trường khí Việt Nam: Xây dựng thị trường khí Việt Nam cạnh tranh, minh bạch và hiệu quả" do Bộ Công Thương phối hợp với Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức sáng 25/8, nhiều ý kiến cho rằng hạn chế từ hạ tầng cơ sở đang là điểm nghẽn cho phát triển thị trường khí hóa lỏng.

Theo Bộ Công Thương, tiêu thụ khí hóa lỏng hằng năm ở Việt Nam vào khoảng 2-2,2 triệu tấn song chủ yếu phục vụ nhu cầu dân dụng và thương mại.

Trên thực tế, sản lượng khai thác hằng năm đang suy giảm trong khi nhu cầu sử dụng khí tăng cao, cùng với đó là những khó khăn trong việc tìm kiếm, thăm dò, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho kinh tế-xã hội. Do vậy, trong tương lai sẽ phải duy trì ổn định nguồn cung cấp khí hiện có kèm theo nhập khẩu khí hóa lỏng LNG.

Theo ông Đặng Hải Anh, Trưởng phòng Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương, để làm được việc này, phải mở rộng các hoạt động tìm kiếm và thăm dò để cung cấp thêm trữ lượng và sản lượng khai thác ở các khu vực tiềm năng, sâu và xa bờ. Đồng thời, phát triển công nghiệp khí đốt; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ hết khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), đảm bảo khả năng nhập khẩu 8 tỷ m3 LNG vào năm 2030 và 15 tỷ m3 vào năm 2045.

Đánh giá của Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương) cho thấy hệ thống kho chứa khí với 54 kho đầu mối và tuyến sau trải dài khắp 3 miền đất nước đã đảm bảo kênh phân phối khí hóa lỏng (LPG) hoạt động trơn tru, không bị đứt gãy nguồn cung khi xảy ra các sự cố cục bộ, khách quan.

Tuy nhiên, hiện nay, khí LPG được sử dụng chủ yếu cho dân dụng, các ứng dụng từ sản phẩm LPG còn thấp. Do vậy, sản lượng tiêu thụ rất thấp, dẫn đến quy mô hệ thống kho cảng LPG chủ yếu là kho cảng nhỏ, năng lực nhập hàng hạn chế.

[Thị trường khí thiên nhiên hóa lỏng hấp dẫn nhà đầu tư Nhật Bản]

Còn với khí LNG, với công nghệ và thiết bị phức tạp, còn mới, ở Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng và vận hành. Tàu vận tải khí LNG thông thường có dung tích lớn, đòi hỏi phải có các cảng nước sâu để tiếp nhận tàu và đây là khó khăn khi xây dựng kho LNG tại Việt Nam.

Ngoài ra, việc xây dựng mới các tuyến ống dẫn khí từ kho LNG đến các khách hàng công nghiệp và dân dụng cũng gặp nhiều khó khăn về quy hoạch do thiếu đồng bộ khi các khu công nghiệp được quy hoạch chưa tính đến hành lang tuyến cho ống dẫn khí đốt.

Theo ông Nguyễn Hoàng Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch-Bộ Công Thương, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khí trong nước, cơ sở hạ tầng tồn trữ của các kho chứa khí phải đạt quy mô từ 3,5-4 triệu tấn/năm vào năm 2025 và khoảng 4,5-5 triệu tấn/năm vào năm 2035 nhằm đảm bảo yêu cầu dự trữ tối thiểu đạt trên 15 ngày cung cấp.

Do vậy trước hết, cần có định hướng mở rộng và xây mới kho chứa khí LPG từ lọc dầu để nhập khẩu đủ nhu cầu phát triển các nhà máy công nghiệp và các khách hàng. Cùng với đó là xây mới và mở rộng kho khí LNG hiện có đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho các dự án điện khí, các khách hàng công nghiệp.

Ông Nguyễn Hoàng Giang cho biết thêm nhìn chung, để xây dựng các định hướng phát triển hạ tầng dự trữ, cung ứng khí Việt Nam khả thi, có hiệu quả chịu ảnh hưởng bởi nhiều định hướng phát triển, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác như: quy hoạch sử dụng đất, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái, cảnh quan; khả năng thu hút huy động vốn của nhà đầu tư. Do vậy, cần có sự phối hợp, chung tay của nhiều bộ, ngành, địa phương, người dân và doanh nghiệp.

Hiện tại, thực hiện Quyết định số 503/QĐ-TTg ngày 10/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, Bộ Công Thương đang trong quá trình hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.

"Sau khi quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ xác định được mục tiêu, phương án phù hợp với tình hình thực tế," đại diện Vụ Kế hoạch cho biết.

Việt Nam có nguồn tài nguyên dầu khí, cơ sở hạ tầng công nghiệp khí đã được xây dựng tương đối đồng bộ. Chính phủ cũng luôn quan tâm đầu tư và phát triển ngành công nghiệp khí với những chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia vào thị trường khí…

Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Vy, chuyên gia từ Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cũng cho rằng hiện công nghệ cho tìm kiếm khai thác vẫn phức tạp, đòi hỏi vốn đầu tư lớn.

Để phát triển thị trường khí, cần thúc đẩy sớm công tác đầu tư các dự án khai thác mỏ, cơ sở hạ tầng khí, nhập khẩu khí, điện khí, tái hóa khí LNG để đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục